PV: Thưa Tiến sĩ, ông đánh giá như thế nào về cơ hội tiếp cận giáo dục của trẻ em vùng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trong những năm qua?
TS. Nguyễn Đình Tuấn: Có thể khẳng định rằng, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến giáo dục, điều này được thể hiện qua việc ban hành các chủ trương, chính sách nhằm mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho người dân, đặc biệt là người dân vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Đối với Tây Nguyên, nhiều chương trình, chính sách ưu tiên đã được triển khai từ đầu tư xây dựng hệ thống trường lớp (trong đó có trường dân tộc nội chú và bán trú), trang thiết bị, phát triển đội ngũ giáo viên, giáo dục song ngữ đến miễn giảm học phí, học bổng, hỗ trợ tiền ăn, tiền nhà ở, tín dụng giáo dục, cử tuyển...
Về hệ thống trường lớp kiên cố tăng lên đáng kể, tính đến năm 2019, 86,4% số trường và 83,4% số phòng học ở Tây Nguyên đã được kiên cố hóa. Số lượng giáo viên người DTTS tham gia giảng dạy cũng có xu hướng tăng.
Từ năm 2012-2021, số giáo viên người DTTS trực tiếp giảng dạy tăng 15,3%, đặc biệt giáo viên THPT tăng đến 26,3%. Điều này giúp trẻ em dễ tiếp cận, được hỗ trợ phù hợp về tâm lý, văn hóa, và thúc đẩy động lực học tập.
Ngoài ra, khoảng cách từ nhà đến trường được rút ngắn nhờ đầu tư hạ tầng giao thông và sắp xếp mạng lưới trường lớp. Năm 2022, trung bình trẻ em DTTS Tây Nguyên chỉ phải đi 2,1 km đến trường tiểu học, 3,6 km đến THCS và 10,9 km đến THPT, giảm nhiều so với trước.
Những thay đổi này đã mang đến chuyển biến tích cực trong cơ hội tiếp cận giáo dục của trẻ em DTTS ở Tây Nguyên. Tỷ lệ trẻ em đến trường và đi học đúng tuổi tăng ở tất cả các bậc học, trong đó ở bậc tiểu học đạt 99,2% - gần tiệm cận mức trung bình cả nước; thu hẹp khoảng cách về tiếp cận giáo dục giữa trẻ em gái và trẻ em trai.
Giờ học thực hành môn Hóa học của học sinh lớp 8, trường Phổ thông Dân tộc nội trú (Đắk Lắk) (Ảnh: Quý Trung/TTXVN)
PV: Vậy đâu là những vấn đề lớn nhất đang cản trở trẻ em dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên tiếp cận với giáo dục hiện nay, thưa ông?
TS. Nguyễn Đình Tuấn: Qua khảo sát tại 3 tỉnh Tây Nguyên (Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng cũ) năm 2020, chúng tôi nhận diện được một số vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tiếp cận giáo dục của trẻ em DTTS.
Thứ nhất, chi phí học tập vẫn là rào cản đối với cơ hội đến trường của trẻ em, nhất là trẻ trong những hộ gia đình nghèo. Mặc dù nhiều học sinh được miễn giảm học phí, được hỗ trợ tiền ăn, tiền nhà ở nhưng các khoản chi ngoài học phí như đồng phục, sách vở, học thêm… vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng chi giáo dục của các hộ gia đình.
Năm 2022, mức chi cho giáo dục ở Tây Nguyên chiếm 9,5% chi tiêu hộ gia đình - cao nhất cả nước - trong khi thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 3.281.800 đồng/tháng, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước.
Tại ba địa phương chúng tôi khảo sát năm 2020, có đến 59,7% phụ huynh bậc tiểu học cho biết gặp khó khăn về chi phí học tập cho con, tỷ lệ này ở bậc THCS và THPT lần lượt là 61,4% và 65,1%.
Thứ hai, khoảng cách địa lý và thời gian đến trường mặc dù đã có sự cải thiện đáng kể trong thời qua nhưng ở nhiều nơi do địa hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn nhất là vào mùa mưa khiến cho việc đến trường của trẻ em ở vùng này còn gặp khó khăn.
Theo kết quả khảo sát năm 2020 cho thấy, ở bậc THPT có 55,7% người trả lời cho biết con em họ đi học gặp khó khăn vì trường lớp xa, và 47,2% vì đường sá đi lại khó khăn.
Thứ ba, yếu tố gia đình và bản thân trẻ em cũng có ảnh hưởng đến cơ hội học tập. Nhiều gia đình không quan tâm đến việc học của trẻ em, hoặc cho trẻ nghỉ học để đi làm hay kết hôn sớm.
Theo kết quả Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2022 của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ học sinh bỏ học hoặc không đi học do bản thân không thích học, không có khả năng học tập, hoặc cha mẹ không quan tâm ở Tây Nguyên là khá cao lần lượt là 78,6% và 52,0%.
Cuối cùng không thể không đề cập đến rào cản ngôn ngữ, nhất là đối với nhóm trẻ mầm non và tiểu học. Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, hơn 55% trẻ em mầm non và gần 50% trẻ tiểu học DTTS gặp khó khăn khi giao tiếp bằng tiếng phổ thông.
Điều này dẫn đến việc trẻ không theo kịp bài giảng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp thu kiến thức, dẫn đến tâm lý tự ti và nguy cơ bỏ học.
PV: Dưới góc nhìn của ông, những hệ lụy nếu trẻ em dân tộc thiểu số bị hạn chế tiếp cận giáo dục là gì?
TS. Nguyễn Đình Tuấn: Như chúng ta đã biết, giáo dục có vai trò quan trọng đối với chất lượng nguồn nhân lực. Từ góc độ phát triển con người (PTCN), hạn chế trong cơ hội tiếp cận giáo dục sẽ làm ảnh hưởng đến năng lực thể chất và tinh thần cho con người. Nếu trẻ em bị hạn chế về cơ hội tiếp cận giáo dục sẽ kéo theo nhiều hệ lụy tiêu cực.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến giáo dục con em đồng bào dân tộc thiểu số
Trước tiên, các em sẽ bị hạn chế về năng lực, kỹ năng, tri thức và cơ hội nghề nghiệp sau này. Nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh cho thấy trình độ càng thấp thì cơ hội tiếp cận việc làm ổn định, thu nhập tốt càng khó khăn, khả năng tham gia thị trường lao động có giá trị cao bị hạn chế. Điều này dễ rơi vào vòng luẩn quẩn nghèo đói, và dẫn đến nguy cơ bất bình đẳng xã hội.
Tiếp đó, hạn chế tiếp cận giáo dục ảnh hưởng đến việc tiếp nhận kiến thức về chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng, kỹ năng sống và hòa nhập cộng đồng không chỉ cho bản thân họ mà còn cho các thành viên trong gia đình.
Đặc biệt trong bối cảnh phát triển nhanh của khoa học - công nghệ và chuyển đổi số hiện nay, nếu trẻ em vùng DTTS không được trang bị kiến thức cơ bản, các em sẽ càng bị tụt hậu, khó hội nhập và tham gia vào các lĩnh vực xã hội.
Hạn chế trong cơ hội tiếp cận giáo dục đối với trẻ em DTTS còn có thể dẫn đến nguy cơ tảo hôn, sinh con sớm, lao động sớm... điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực.
Ngoài ra, tình trạng này còn làm giảm hiệu quả sử dụng các chính sách phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số mà Nhà nước đang đầu tư.
PV: Theo ông, để mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho trẻ em dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, cần tập trung giải quyết những vấn đề gì?
TS. Nguyễn Đình Tuấn: Tôi cho rằng, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục đầu tư nâng cấp, xây dựng trường lớp ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt ở cấp học THCS, THPT; mở rộng các trường bán trú, nội trú dân tộc để giảm áp lực khoảng cách và chi phí học tập cho gia đình.
Thứ hai, bắt đầu từ năm học 2025-2026 chính sách miễn toàn bộ học phí cho học sinh từ mầm non đến hết trung học phổ thông công lập trên phạm vi cả nước sẽ có những tác động tích cực đến cơ hội đến trường của nhiều trẻ em.
Tuy nhiên, đối với trẻ em người DTTS cần có những chính sách hỗ trợ chi phí ngoài học phí như sách vở, đồng phục, phương tiện đi lại và nghiên cứu mở rộng đối tượng được hưởng chế độ hỗ trợ tiền ăn, tiền nhà ở.
Thứ ba, tiếp tục ưu tiên đào tạo và tuyển dụng giáo viên là người DTTS; triển khai các chương trình giáo dục song ngữ phù hợp nhằm giúp học sinh dễ tiếp cận kiến thức phổ thông, giảm bớt rào cản ngôn ngữ.
Thứ tư, tăng cường truyền thông, vận động để cha mẹ người DTTS nhận thức đầy đủ về vai trò của giáo dục, khuyến khích con em đến trường. Đồng thời tiếp tục phát huy vai trò của địa phương trong công tác tuyên truyền, vận động trẻ em người DTTS sống ở vùng đặc biệt khó khăn đến trường đúng tuổi.
Cuối cùng, cần có các chính sách ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế hộ gia đình DTTS, bởi khi kinh tế ổn định, cha mẹ mới có điều kiện và động lực cho con em học tập lâu dài.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Nguồn: https://phunuvietnam.vn/tay-nguyen-nhieu-thach-thuc-trong-tiep-can-giao-duc-cho-tre-em-vung-dan-toc-thieu-so-20250805105114214.htm
Bình luận (0)