Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Hoàn thiện chính sách xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới của đất nước

TCCS - Chính sách xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một bộ phận cấu thành trong hệ thống chính sách của Nhà nước hướng tới nhà đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện mục tiêu thu hút, phát huy vai trò, quản lý FDI theo định hướng phát triển của quốc gia. Ở Việt Nam, chính sách xúc tiến FDI đóng góp quan trọng vào thành tựu công cuộc đổi mới, được xây dựng và hoàn thiện gắn liền với từng giai đoạn phát triển của đất nước.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản28/07/2025

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với các doanh nghiệp châu Âu, ngày 2-3-2025_Ảnh: TTXVN

Nhìn lại chính sách xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong công cuộc đổi mới

Trong giai đoạn đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, xúc tiến FDI của nước ta chủ yếu mang tính chất kêu gọi đầu tư. Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 - 1998, Việt Nam bắt đầu mở rộng xúc tiến FDI sang hoạt động thuận lợi hóa về thủ tục đối với nhà đầu tư hiện có và từng bước chuyên nghiệp hóa công tác xúc tiến đầu tư. Việc thành lập Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) là một bước phát triển, đưa xúc tiến FDI trở thành một trong những nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước về FDI ở Việt Nam.

Để đón bắt dòng vốn FDI từ hiệu ứng Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, Chính phủ đã ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến FDI quốc gia; theo đó, chương trình xúc tiến FDI quốc gia hằng năm và trung hạn được xây dựng, triển khai theo định hướng thu hút FDI. Quyết định số 03/2014/QĐ-TTg, ngày 14-1-2014, của Thủ tướng Chính phủ, ban hành quy chế quản lý nhà nước đối với hoạt động xúc tiến đầu tư, đã tạo khung khổ quản lý thống nhất hoạt động xúc tiến FDI của các ban, bộ, ngành và địa phương. Trước đó, Quyết định số 26/2012/QĐ-TTg, ngày 8-6-2012 của Thủ tướng Chính phủ, ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia, đã bước đầu tạo lập một số quy định về xúc tiến đầu tư liên quan đến đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Đến nay, khung khổ chính sách xúc tiến FDI tiếp tục được hoàn thiện về chủ trương, đường lối, chương trình và kế hoạch. Nổi bật là, Nghị quyết số 50/NQ-TW, ngày 20-8-2019, của Bộ Chính trị (khóa XII), “Về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030”, đã tạo bước chuyển mạnh mẽ về tư duy thu hút FDI từ số lượng sang chất lượng; đề ra mục tiêu, quan điểm, định hướng lớn về thu hút FDI, trong đó có định hướng xúc tiến FDI. Để thể chế hóa nghị quyết quan trọng này, Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành xác định chính sách, định hướng, kế hoạch, chương trình, hoạt động xúc tiến đầu tư.... Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021 - 2030, ban hành Danh mục dự án quốc gia kêu gọi FDI giai đoạn 2021 - 2025, bao gồm 157 dự án với tổng số vốn khoảng 86 tỷ USD trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, môi trường, chế biến nông sản,... Các ban, bộ, ngành, địa phương xây dựng, triển khai chương trình, kế hoạch xúc tiến FDI phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của ngành, địa phương.

Việc triển khai chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch xúc tiến FDI trong thời gian qua góp phần tích cực định vị Việt Nam là điểm đến đầu tư an toàn và hấp dẫn. Thông tin cơ bản về chính sách, pháp luật và môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam đã được truyền tải rộng rãi. Đại diện xúc tiến FDI đã được thành lập ở một số quốc gia, như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Pháp... Bên cạnh hoạt động trong khuôn khổ chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia, các ban, bộ, ngành, địa phương đã chủ động, tích cực tổ chức các sự kiện quảng bá, kết nối đầu tư, cử đoàn xúc tiến FDI đến một số quốc gia là đối tác đầu tư quan trọng để tiếp cận nhà đầu tư trong lĩnh vực ưu tiên. Đặc biệt, trong chương trình hoạt động đối ngoại cấp cao, công tác xúc tiến FDI ngày càng được coi trọng thúc đẩy và đạt nhiều kết quả quan trọng.

Để tạo điều kiện thuận lợi đầu tư, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; trong đó, trọng tâm là cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục liên quan đến kinh doanh, mở rộng cơ chế một cửa liên thông gắn với số hóa hồ sơ, giấy tờ... Hệ thống thông tin đầu tư quốc gia là nền tảng số quan trọng trong cung cấp thông tin đầu tư, hướng dẫn và giải quyết thủ tục hành chính công trực tuyến, giúp nhà đầu tư tiết kiệm thời gian và chi phí.

Đối thoại chính sách, lắng nghe kiến nghị, đề xuất của nhà đầu tư ngày càng được quan tâm. Cơ chế đối thoại công - tư, điển hình là Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) đã đóng góp tích cực vào hoàn thiện chính sách, pháp luật và môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam. Đối thoại theo ngành, lĩnh vực và tại một số địa phương góp phần giải quyết vướng mắc của nhà đầu tư. Mô hình đối thoại chính sách và chăm sóc nhà đầu tư đã được một số ban, bộ, ngành, địa phương triển khai, như định kỳ đối thoại với nhà đầu tư, thiết lập cơ chế một cửa giải quyết thủ tục hành chính, thành lập tổ công tác chuyên trách xử lý kiến nghị của nhà đầu tư, chủ động tiếp cận, hỗ trợ tập đoàn quốc tế đang có kế hoạch đầu tư mới hoặc mở rộng đầu tư ở Việt Nam, giúp nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn sau đại dịch COVID-19...

Như vậy, khung thể chế, chính sách xúc tiến FDI của Việt Nam trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã định hình, từng bước gắn liền với tiến trình xây dựng, hoàn thiện chính sách thu hút và quản lý FDI. Việc thực thi chính sách xúc tiến FDI chuyển dần từ thụ động sang chủ động với hoạt động xúc tiến đầu tư phong phú, đồng bộ hơn. Cùng với việc hoàn thiện thể chế, chính sách trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội (kết cấu hạ tầng, giáo dục - đào tạo, phát triển khoa học - công nghệ...), nỗ lực xây dựng, hoàn thiện và triển khai chính sách xúc tiến FDI đã đóng góp quan trọng vào thành tựu thu hút FDI ở Việt Nam. Tính lũy kế đến hết năm 2024, Việt Nam đã thu hút khoảng 42.000 dự án FDI còn hiệu lực đến từ hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng số vốn đăng ký đạt khoảng 500 tỷ USD, trong đó vốn FDI đã giải ngân đạt hơn 320 tỷ USD, tương đương 64% tổng số vốn đăng ký. Chất lượng vốn FDI ngày càng cải thiện, dần dịch chuyển sang lĩnh vực có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao hơn. Hoạt động xúc tiến FDI trong những năm qua đã củng cố hình ảnh Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn đối với doanh nghiệp nước ngoài. Theo khảo sát của Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) năm 2024, 75% lãnh đạo doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam khẳng định sẽ tiếp tục ưu tiên lựa chọn Việt Nam để đầu tư. Khảo sát Chỉ số niềm tin kinh doanh của EuroCham cho thấy, 31% doanh nghiệp thành viên EuroCham lựa chọn Việt Nam là một trong ba điểm đến đầu tư hàng đầu.

Bên cạnh kết quả quan trọng đạt được, chính sách xúc tiến FDI của Việt Nam còn một số hạn chế trước yêu cầu ngày càng cao về thu hút vốn FDI để phục vụ đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Việc đón bắt xu hướng đầu tư toàn cầu trong xúc tiến FDI thời gian qua vẫn còn chưa thực sự chủ động và nhạy bén. Từ thập niên đầu của thế kỷ XXI, đầu tư toàn cầu có những chuyển biến dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, tuy nhiên Việt Nam chưa nắm bắt sớm cơ hội từ những chuyển biến này để hướng đến tập đoàn hàng đầu có nhu cầu dịch chuyển chuỗi cung ứng và đầu tư.

Chính sách xúc tiến FDI thiếu tính chiến lược lâu dài, hoạt động xúc tiến chủ yếu mang tính ngắn hạn, quảng bá đại trà thay vì tiếp cận có trọng tâm, trọng điểm theo ngành, lĩnh vực và đối tác ưu tiên. Nguồn lực xúc tiến FDI còn dàn trải, liên kết giữa các ban, bộ, ngành, địa phương thiếu chặt chẽ. Việc tổ chức xúc tiến FDI ở nước ngoài chưa thực sự chuyên nghiệp và nguồn lực bị phân tán.

Hạn chế trong kết quả thu hút FDI phần nào phản ánh hiệu quả xúc tiến FDI chưa cao. Cơ cấu vốn FDI còn bất cập, tập trung vào khu vực Đông Á trong khi vốn FDI từ khu vực, quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ và thị trường còn hạn chế. Vốn FDI vào một số ngành, lĩnh vực ưu tiên trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội (kết cấu hạ tầng, nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sinh học, môi trường,...) chưa đáp ứng yêu cầu và kỳ vọng.

Trình độ công nghệ trong dự án FDI nhìn chung còn hạn chế, có nguyên nhân từ công tác xúc tiến FDI. Việc nghiên cứu, tiếp cận, kết nối và chăm sóc nhà đầu tư công nghệ cao chưa hiệu quả. Kinh nghiệm rút ra từ quá trình vận động một số tập đoàn công nghệ lớn đầu tư vào Việt Nam (như NVIDIA, Qualcomm, Foxconn...) trong thời gian gần đây cho thấy, việc các tập đoàn công nghệ chưa thực sự quan tâm đến Việt Nam chủ yếu do chưa được cung cấp kịp thời, đầy đủ thông tin sâu về chính sách, môi trường đầu tư ở Việt Nam, cũng như chưa có “gói dịch vụ” phù hợp về thuận lợi hóa thủ tục, chăm sóc và kết nối với đối tác trong nước dành riêng cho các tập đoàn này.

Dịch vụ chăm sóc sau đầu tư (aftercare) được quan tâm hơn, song còn thiếu tính hệ thống, bài bản và chiều sâu. Đến nay, chưa có chương trình chăm sóc nhà đầu tư một cách chuyên nghiệp với dịch vụ chất lượng. Theo khảo sát của EuroCham năm 2024, một trong những nguyên nhân khiến nhà đầu tư Liên minh châu Âu (EU) e ngại mở rộng đầu tư tại Việt Nam là vì Việt Nam chưa thực sự đồng hành cùng nhà đầu tư thực hiện dự án, chậm phản hồi và giải quyết yêu cầu của nhà đầu tư. Thực tiễn cho thấy, quy trình, thủ tục hành chính vẫn là trở ngại đối với doanh nghiệp FDI.

Hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu do nguyên nhân chủ quan. Đơn cử như, tư duy, nhận thức của các cấp, các ngành về xúc tiến FDI chậm đổi mới, còn mang tính thụ động; thiếu chiến lược tổng thể quốc gia về xúc tiến FDI làm cơ sở đồng bộ, nhất quán mục tiêu, định hướng thu hút FDI. Công tác nghiên cứu, dự báo đầu tư quốc tế chưa theo kịp xu hướng phát triển mới của thế giới; nghiên cứu chuyên sâu các ngành, lĩnh vực, hình thức đầu tư mới và tập đoàn lớn còn hạn chế. Nguồn lực, năng lực xúc tiến FDI chưa đáp ứng yêu cầu; đội ngũ cán bộ xúc tiến FDI chưa được chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ...

Dây chuyền sản xuất, kiểm tra các bản mạch điện tử dạng dẻo, nhiều lớp tích hợp của Công ty TNHH Young Poong Electronics VINA tại khu công nghiệp Bình Xuyên II, tỉnh Phú Thọ_Ảnh: TTXVN

Hoàn thiện chính sách xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong bối cảnh mới

Đầu tư quốc tế đang trải qua biến chuyển sâu sắc dưới tác động tổng hòa của nhiều xu hướng, trực tiếp là xu hướng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh,... Mặc dù có lợi thế và cơ hội tranh thủ dòng vốn FDI mới từ xu thế này, nhất là sự dịch chuyển đầu tư, cơ cấu lại chuỗi cung ứng và mạng lưới sản xuất của nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới, nhưng Việt Nam đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt từ nhiều quốc gia trong thu hút FDI gắn với công nghệ cao và phát triển bền vững. Các nước trong khu vực đã và đang dành nhiều nguồn lực triển khai chiến lược xúc tiến FDI vào lĩnh vực công nghệ mới thân thiện với môi trường; đồng thời, đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, hiện đại hóa cơ chế “một cửa”, số hóa mạnh mẽ thủ tục, dịch vụ hỗ trợ đầu tư...

Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam chuẩn bị bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với mục tiêu, tầm nhìn trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với thu hút FDI về số lượng, chất lượng và hiệu quả. Với thế và lực mới, Việt Nam có cơ hội lớn để thu hút FDI chất lượng khi nhiều nước, đối tác coi trọng vị trí Việt Nam trong chiến lược, chính sách đối với khu vực, đánh giá Việt Nam là đối tác, bạn bè tin cậy và là điểm đến an toàn cho đầu tư, sản xuất. Các khuôn khổ quan hệ đối tác vừa được thiết lập, nâng cấp và mạng lưới hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết đang mở ra cơ hội lớn để Việt Nam mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác thương mại - đầu tư, khoa học - công nghệ, đa dạng hóa, đa phương hóa nguồn cung vốn FDI, nhất là FDI từ đối tác có tiềm lực tài chính và công nghệ. Để tranh thủ tốt thời cơ chiến lược phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới, việc đổi mới tư duy, hoàn thiện chính sách thu hút FDI nói chung, chính sách xúc tiến FDI nói riêng đóng vai trò hết sức quan trọng.

Để hoàn thiện chính sách xúc tiến FDI ở nước ta, một số định hướng, giải pháp cần được cân nhắc hoàn thiện chính sách xúc tiến FDI ở nước ta như sau:

Thứ nhất, chuyển xúc tiến FDI từ phương thức đại trà sang xúc tiến FDI mang tính chủ động cao, có chiến lược, trọng tâm và trọng điểm về ngành, lĩnh vực và đối tác trên cơ sở lấy chất lượng, hiệu quả làm tiêu chí hàng đầu; từ tuyên truyền, quảng bá môi trường đầu tư, kinh doanh là chủ yếu sang triển khai đồng bộ, hiệu quả việc xây dựng thương hiệu, hình ảnh quốc gia, thuận lợi hóa đầu tư, dịch vụ hỗ trợ, chăm sóc, thúc đẩy liên kết và đối thoại chính sách đầu tư. Theo đó, cần nghiên cứu xây dựng, triển khai chiến lược tổng thể quốc gia về xúc tiến FDI, trong đó định vị rõ và nhất quán thương hiệu Việt Nam là địa điểm đầu tư an toàn, thân thiện với nhà đầu tư, có tính kết nối cao, thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới sáng tạo.

Việc xác định đúng ngành, lĩnh vực và đối tác ưu tiên trong chiến lược xúc tiến FDI có vai trò hết sức quan trọng, bởi đây là căn cứ để phân bổ, sử dụng hợp lý nguồn lực xúc tiến FDI. Bên cạnh đó, cần rà soát, đánh giá tổng thể ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, trên cơ sở đó lựa chọn ngành, lĩnh vực ưu tiên xúc tiến FDI, bảo đảm phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển đất nước, có khả năng tạo ra tác động lan tỏa thông qua gia tăng giá trị và liên kết với khu vực kinh tế trong nước. Việc xác định đối tác ưu tiên xúc tiến FDI cần tiếp cận từ cả góc độ khu vực địa lý và khả năng đáp ứng của đối tác đối với mục tiêu, định hướng, yêu cầu thu hút FDI.

Thứ hai, xây dựng và triển khai chương trình, kế hoạch xúc tiến FDI vào ngành, lĩnh vực và đối tác ưu tiên trên cơ sở cụ thể hóa chiến lược tổng thể quốc gia về xúc tiến FDI. Trong đó: 1- Xác định rõ tập đoàn quốc tế cần chủ động tiếp cận, xúc tiến và doanh nghiệp trong nước có khả năng hợp tác, liên kết với tập đoàn quốc tế. Nếu có cơ chế thu hút doanh nghiệp trong nước tham gia hoạt động xúc tiến FDI trong khuôn khổ chương trình, kế hoạch xúc tiến ngành, lĩnh vực ưu tiên, thì hoạt động xúc tiến FDI sẽ đạt hiệu quả cao hơn; 2- Xây dựng đề xuất gói chính sách (offer) cụ thể trong từng ngành, lĩnh vực ưu tiên với khung chính sách ưu đãi, dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư và tiêu chí cụ thể về hưởng ưu đãi để thống nhất triển khai, góp phần khắc phục tình trạng “cạnh tranh tới đáy” giữa các địa phương trong xúc tiến, thu hút FDI; 3- Xác định danh mục dự án trọng điểm thu hút FDI trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên, nhất là dự án ở tầm quốc gia, để tạo ra sự tác động lan tỏa sâu rộng hoặc bước phát triển mới trong ngành, lĩnh vực ưu tiên.

Thứ ba, đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ đầu tư theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại. Thực tiễn cho thấy, dịch vụ chăm sóc sau đầu tư thường ít tốn kém hơn chiến dịch quảng bá đầu tư rầm rộ. Để bảo đảm các nhà đầu tư nước ngoài được chăm sóc trong khi nguồn lực có hạn, cần xây dựng chương trình chăm sóc sau đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, bao gồm: 1- Gói chăm sóc cơ bản dành cho tất cả nhà đầu tư; 2- Gói chăm sóc nâng cao chỉ dành cho nhà đầu tư ưu tiên đang thực hiện dự án có giá trị gia tăng cao và/hoặc tác động lan tỏa sâu rộng (như chuyển giao công nghệ, liên kết với doanh nghiệp trong nước...). Đối với một số nhà đầu tư chiến lược trong lĩnh vực ưu tiên, cần thành lập nhóm, tổ công tác chuyên trách hỗ trợ nhà đầu tư.

Nghiên cứu thiết lập Cơ chế phản hồi nhà đầu tư có hệ thống (SIRM) để theo dõi, quản lý vấn đề được nhà đầu tư quan tâm, góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư và giảm thiểu tranh chấp. Cần thống nhất cơ quan đầu mối tiếp nhận, đánh giá vấn đề vướng mắc của nhà đầu tư; đồng thời, có cơ chế phối hợp, thông tin kịp thời, thông suốt giữa các cơ quan liên quan ở Trung ương và địa phương trong phản hồi, giải quyết vấn đề quan tâm, vướng mắc của nhà đầu tư.

Thứ tư, tăng cường xúc tiến FDI trong triển khai ngoại giao kinh tế. Trọng tâm là, phát huy vai trò của cơ quan đại diện, thương vụ Việt Nam ở nước ngoài trong tiếp cận, mở rộng mạng lưới nhà đầu tư chiến lược hoặc có tiềm năng tại địa bàn trọng điểm; tăng cường phối hợp chuẩn bị, tổ chức diễn đàn, sự kiện xúc tiến FDI một cách thực chất, có kết quả cụ thể trong hoạt động đối ngoại cấp cao; thúc đẩy mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác với các cơ quan, hiệp hội xúc tiến đầu tư quốc tế uy tín, như Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn quốc (KOICA), Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ ), Ủy ban Phát triển kinh tế Xin-ga-po (EDB), EuroCham,... trong phối hợp tổ chức xúc tiến đầu tư chung (twin-promotion), hỗ trợ nâng cao năng lực xúc tiến, quảng bá đầu tư, đối thoại chính sách, cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư

Thứ năm, chuyển đổi số đang làm thay đổi mạnh mẽ phương thức xúc tiến FDI, trong đó số hóa được áp dụng với hầu hết nội dung xúc tiến FDI, từ quảng bá, thông tin đầu tư đến thuận lợi hóa thủ tục, chăm sóc nhà đầu tư. Theo khảo sát của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) năm 2021, gần như 100% cơ quan xúc tiến đầu tư ở các nước OECD sử dụng mạng xã hội để xúc tiến FDI, hơn 90% cơ quan tổ chức hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư trực tuyến, hơn 80% cơ quan đã giảm số lượng đoàn đi xúc tiến đầu tư ở nước ngoài nhờ chuyển đổi số, gần 50% cơ quan sử dụng dữ liệu lớn để phân tích hành vi của nhà đầu tư, hơn 30% cơ quan giải quyết thủ tục cấp phép đầu tư hoàn toàn trên môi trường số, hơn 20% cơ quan sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) làm “trợ lý ảo” hỗ trợ nhà đầu tư.

Trong điều kiện của Việt Nam, bên cạnh đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác xúc tiến FDI, nhất là khâu thông tin và hỗ trợ nhà đầu tư. Theo đó, cần sớm nghiên cứu, xây dựng “cổng một cửa đầu tư quốc gia” đa ngôn ngữ trên cơ sở tích hợp thống nhất chức năng thông tin (chính sách, pháp luật, môi trường đầu tư...), giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, cơ sở dữ liệu cần thiết cho nhà đầu tư (quy hoạch, nhà cung cấp trong nước, ngành/lĩnh vực ưu tiên, dự án ưu tiên quốc gia...), hệ thống tiếp nhận và phản hồi quan tâm của nhà đầu tư có tính tương tác cao, kết nối liên thông với các cổng thông tin quốc gia, bộ, ngành và địa phương. Ngoài ra, tăng cường sử dụng công nghệ số trong quản lý quan hệ với nhà đầu tư nước ngoài (CRM) và quảng bá, truyền thông đầu tư để nâng cao chất lượng chăm sóc nhà đầu tư và hiệu quả truyền thông.

Thứ sáu, nâng cao năng lực xúc tiến FDI theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và hiệu quả. Tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy cơ quan xúc tiến đầu tư ở Trung ương và địa phương đi đôi với đổi mới, hiện đại hóa mô hình quản trị, vận hành, nâng cao hiệu quả. Ngoài ra, có thể tham khảo kinh nghiệm quốc tế để lựa chọn mô hình phù hợp về tổ chức cơ quan xúc tiến đầu tư ở nước ta. Các nghiên cứu, khảo sát thực nghiệm của các tổ chức quốc tế có uy tín(1) cho thấy, cơ quan xúc tiến đầu tư hiệu quả trên thế giới có tính tự chủ cao và/hoặc tổ chức theo mô hình quản trị có sự kết hợp giữa nhà nước và tư nhân.

Bên cạnh đó, kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đại diện xúc tiến FDI ở nước ngoài; sớm xây dựng nền tảng chung về chia sẻ thông tin, phối hợp giữa cơ quan xúc tiến đầu tư trong nước với đại diện xúc tiến FDI và các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Xây dựng đội ngũ cán bộ xúc tiến FDI chuyên nghiệp, tinh thông kỹ năng, nghiệp vụ và ngoại ngữ, nhất là cán bộ ở địa phương, trên cơ sở đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xúc tiến đầu tư theo hướng chuyên sâu về chính sách, pháp luật đầu tư, thành thạo kỹ năng cơ bản (đàm phán, tư vấn, truyền thông - marketing,...).

Chính sách xúc tiến FDI đóng vai trò quan trọng trong thu hút và quản lý FDI. Để tranh thủ thời cơ thuận lợi về thu hút dòng vốn FDI chất lượng, việc đổi mới mạnh mẽ tư duy và hoàn thiện chính sách xúc tiến FDI với tầm nhìn dài hạn, chuyên nghiệp, đồng bộ và hiện đại là rất cần thiết. Việc hoàn thiện chính sách xúc tiến FDI cần đặt trong tổng thể xây dựng, hoàn thiện chính sách và pháp luật về kinh tế - xã hội, trực tiếp là chính sách, pháp luật về đầu tư. Điều này sẽ góp phần quan trọng tạo bước chuyển mới về thu hút vốn FDI để thực hiện tầm nhìn, mục tiêu và định hướng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

-------------------

(1) Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)...

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/1111202/hoan-thien-chinh-sach-xuc-tien-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-vao-viet-nam-trong-giai-doan-phat-trien-moi-cua-dat-nuoc.aspx


Chủ đề: doanh nghiệp FDI

Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Đội hình mũi tên 5 tiêm kích SU-30MK2 đầy uy lực chuẩn bị cho đại lễ A80
Tên lửa S-300PMU1 trực chiến bảo vệ bầu trời Hà Nội
Mùa sen nở rộ thu hút du khách đến với vùng non nước hùng vĩ Ninh Bình
 Cù Lao Mái Nhà: Nơi sự hoang sơ, hùng vĩ và bình yên cùng hòa quyện

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm