Ngày 23/3/1934, một sự kiện gây chấn động giới tri thức Paris khi lần đầu tiên có người An Nam tốt nghiệp tiến sĩ văn khoa tại Đại học Sorbonne. Trường đại học được mệnh danh là “trái tim tri thức” của châu Âu này chưa từng có sinh viên thuộc địa nào tốt nghiệp tiến sĩ tính đến thời điểm đó.
Tờ báo Paris buổi trưa đã đăng bản tin về vị tân tiến sĩ ngay sau buổi bảo vệ luận án xuất sắc của ông. Giới chuyên môn bất ngờ và hoan nghênh. Cái tên Nguyễn Văn Huyên được biết đến từ đây. Năm đó, ông 29 tuổi.
Ngoài tấm bằng tiến sĩ văn khoa, Nguyễn Văn Huyên còn có bằng cử nhân luật, đều tại Đại học Sorbonne.
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thuyết phục ông Nguyễn Văn Huyên làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục chỉ bằng một câu nói: “Chú phải chia chữ cho dân”.
Nhiệm vụ “chia chữ cho dân” ấy đã được GS Nguyễn Văn Huyên thực hiện trong suốt 30 năm, cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời.

GS Nguyễn Văn Huyên sinh năm 1905 tại phố Thuốc Bắc, Hà Nội. Mồ côi cha từ năm 8 tuổi, ông Huyên được mẹ và chị gái nuôi ăn học. Bà Nguyễn Thị Mão - chị gái ông - thuộc thế hệ nữ giáo viên toán đầu tiên của Đông Dương.
Năm 1935, ông Nguyễn Văn Huyên về nước, giữ chức Giáo sư Trường Bảo hộ (Trường Bưởi) - Ban Tú tài bản xứ, dạy môn lịch sử - địa lý Pháp. Từ năm 1937, ông cộng tác nghiên cứu với Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp và sang hẳn đó làm việc vào năm 1938. Tới năm 1942, GS Nguyễn Văn Huyên được bổ nhiệm là 1 trong 5 thành viên nghiên cứu (thường trực) chính thức của Viện. Bốn người còn lại đều là người Pháp.
Cùng với các trợ lý nghiên cứu người Việt khác như các ông Nguyễn Văn Tố, Trần Văn Giáp, Trần Hàm Tấn, Lê Dư, Nguyễn Trọng Phấn, Công Văn Trung…, GS Nguyễn Văn Huyên thuộc thế hệ tinh hoa hiếm có đã góp phần quan trọng đặt nền móng cho nền khoa học xã hội nhân văn hiện đại ở Việt Nam.
Trong 10 năm đầu tiên của sự nghiệp, GS Nguyễn Văn Huyên chỉ đi dạy 3 năm ở trường Bưởi, thời gian còn lại ông dành cho nghiên cứu. Đó vừa là niềm đam mê, vừa là lý tưởng của ông.
GS Nguyễn Văn Huy - con trai GS Nguyễn Văn Huyên - kể lại, tâm nguyện lớn nhất của cha mình trước năm 1945 là người Việt Nam phải giành được vị trí cao trong khoa học với nước Pháp và trên thế giới. Ông muốn dùng các công trình nghiên cứu của mình để có vị trí xứng đáng trong Viện Hàn lâm ở Paris, “để người ta thấy người Việt Nam là như thế nào”.

Nhưng lịch sử lại chọn ông cho giáo dục.
Bắt đầu từ năm 1939, GS Nguyễn Văn Huyên tham gia vào Ban trị sự Hội Truyền bá Quốc ngữ cùng với các ông Nguyễn Văn Tố, Võ Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Hãn… nhằm mục đích diệt giặc dốt cho dân nghèo. Từ các hoạt động của Hội, ông gặp gỡ ông Vũ Đình Hoè - người sau này là Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục đầu tiên trong chính phủ lâm thời.
Danh tiếng của GS Nguyễn Văn Huyên giai đoạn 1935-1945 rất lớn. Không chỉ vì uy tín học thuật khi ông là người Việt Nam duy nhất tốt nghiệp Tiến sĩ tại trường đại học danh giá nhất châu Âu, là người Việt Nam duy nhất trong thường trực của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, mà còn vì gia thế cá nhân của ông.
GS Nguyễn Văn Huyên nên duyên với tiểu thư Vi Kim Ngọc - con gái của quan Tổng đốc Thái Bình Vi Văn Định. Phía nhà ông, chị gái ruột kết hôn với Khâm sai đại thần Bắc bộ Phan Kế Toại.
Nhưng trách nhiệm của một tri thức lớn đối với vận mệnh dân tộc đã dẫn đường cho GS Nguyễn Văn Huyên đến với cách mạng.
Tháng 7/1945, GS Nguyễn Văn Huyên cùng ông Vũ Đình Hoè vào Bắc bộ phủ gặp Khâm sai Phan Kế Toại, bí mật vận động anh rể của mình từ chức.
Chiều 20/8/1945, GS Nguyễn Văn Huyên cùng các ông Nguỵ Như Kon Tum, Nguyễn Xiển, và Hồ Hữu Tường ký tên vào bức điện gửi cho vua Bảo Đại yêu cầu thoái vị. “Nhóm 4 người” ký bức điện lịch sử đó đều là các nhà giáo dục.

Trong hồi ký của mình, ông Vũ Đình Hoè cho biết, ban đầu, ông được Chính phủ lâm thời giao cho nhiệm vụ “cứu đói”, tức Bộ trưởng Cứu tế xã hội, còn ông Nguyễn Văn Tố làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục. Tuy nhiên, chính GS Nguyễn Văn Huyên - bằng sự am hiểu và kinh nghiệm làm việc với cả hai ông - đã can thiệp để Chính phủ đổi lại vai trò cho “đúng người, đúng chỗ”.
Ngay khi đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng, ông Vũ Đình Hoè đã đến Viễn Đông Bác cổ gặp GS Nguyễn Văn Huyên để bàn về khung tổ chức Bộ Quốc gia Giáo dục và những việc cần làm ngay. Theo đó, giúp Bộ quản lý việc học có 4 Nha gồm: Nha Đại học vụ do GS Nguyễn Văn Huyên phụ trách; Nha Trung học vụ và Tiểu học vụ do ông Nguỵ Như Kon Tum và Nguyễn Hữu Tảo phụ trách; Nha Bình dân học vụ do Nguyễn Công Mỹ phụ trách.
Theo tư vấn của GS Nguyễn Văn Huyên, có 3 việc lớn phải đề nghị Chính phủ tuyên bố ngay: Một là, hạn trong vòng 1 năm toàn thể đồng bào phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ; hai là, tất cả các cấp học phải dạy bằng chữ Quốc ngữ, kể cả đại học; ba là soạn thảo đề án cải cách nền giáo dục hiện hành.
Cả 3 đề nghị này đều được thông qua.
Ngày 10/10/1945, Chính phủ ra sắc lệnh thiết lập Hội đồng Cố vấn học chính để xúc tiến nghiên cứu soạn thảo dự án Cải cách giáo dục. “Kiến trúc sư trưởng” của dự án là GS Nguyễn Văn Huyên.
Chỉ 10 tháng sau đó, tờ trình dự án được đưa lên Chính phủ. Lần đầu tiên, Việt Nam xây dựng nguyên tắc cơ bản và tôn chỉ mục đích của giáo dục. Đó là nền giáo dục dân chủ, dân tộc và khoa học; đồng thời theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia.

Với tinh thần dân chủ, nền giáo dục mới là một nền giáo dục duy nhất và bình đẳng cho toàn dân.
Với tinh thần dân tộc, nền giáo dục mới rèn luyện tinh thần quốc gia mạnh mẽ để mọi người biết toàn lực phụng sự Tổ quốc.
Với tinh thần khoa học, nền giáo dục mới phát triển con người toàn diện, hài hoà, đồng thời chú trọng cả lý thuyết lẫn thực hành, coi trọng học chuyên nghiệp.
Ngày 10/6/1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh 146, chính thức tổ chức nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập.

Ngay trong thời gian soạn thảo đề án cải cách giáo dục quốc gia, GS Nguyễn Văn Huyên đồng thời tổ chức lại các trường đại học vốn trước đó nằm trong tay người Pháp, và sau đó là người Nhật - thành Trường Đại học Quốc gia Việt Nam.
Ngày 15/11/1945, tức chỉ hơn 2 tháng sau Ngày Độc lập, lễ khai giảng đầu tiên của các trường đại học mới đã diễn ra với sự chứng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh - đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, cùng các đại diện phái bộ Đồng Minh đang có mặt tại Hà Nội.
Trong diễn văn khai giảng, trước các vị khách quốc tế, GS Nguyễn Văn Huyên phát biểu: “Buổi lễ hôm nay, anh em giáo sư và sinh viên chúng tôi muốn là một dịp để tỏ cho thế giới biết rằng trong giờ phút nghiêm trọng của tiền đồ Tổ quốc này, dân tộc Việt Nam, ngoài công cuộc đấu tranh bằng xương máu trên chiến địa cũng nỗ lực tham gia vào công cuộc tiến triển văn hoá của nhân loại.
Chúng tôi muốn rằng nền đại học mới này là một lực lượng mạnh trong những lực lượng chiến đấu của dân tộc Việt Nam. Chúng tôi muốn nó là một thành luỹ để trường kỳ kháng chiến, phục hồi hoàn toàn lãnh thổ và giải phóng tinh thần cho dân tộc chúng tôi - một dân tộc văn hiến có ngoài nghìn năm lịch sử độc lập và đã tự gây nên được một nền văn minh đặc sắc trên ven bể Thái Bình Dương này”.
Bài diễn văn khai giảng của GS Nguyễn Văn Huyên được lưu trữ tại Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp.

Cuối năm 1946, trước bối cảnh lịch sử mới, đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị GS Nguyễn Văn Huyên làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục. Ban đầu, GS Huyên từ chối vì nghĩ rằng mình không thể đảm đương được. Nhưng Bác Hồ đã nói một câu khiến GS Huyên không thể không nhận lời: “Chú phải chia chữ cho dân”.
Từ tháng 11/1946 đến tháng 10/1975, GS Nguyễn Văn Huyên có gần 30 năm chèo lái con thuyền giáo dục nước nhà trong bối cảnh chiến tranh. Ba thập kỷ trong bom đạn, ông đã thực hiện nhiều cuộc cải cách, thể hiện nhất quán một phương sách tổ chức nền giáo dục theo hướng tinh gọn, hiệu quả, linh hoạt, vừa phục vụ kháng chiến vừa chuẩn bị cho việc kiến thiết đất nước.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất chỉ vừa triển khai chưa đầy 6 tháng thì toàn quốc kháng chiến, toàn bộ trường Bưởi, các trường đại học đều phải đi tản cư, rút lên chiến khu.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2 diễn ra ngay tại Việt Bắc, năm 1950. Ban tu thư được lập ra giữa rừng để biên soạn sách giáo khoa. Đích thân Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên chỉ đạo biên soạn sách giáo khoa các môn khoa học xã hội.
Ngành giáo dục có cuộc chuyển hướng lớn diễn ra ở miền Bắc năm 1966, khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại. Các trường đều sơ tán về nông thôn, dạy và học trong điều kiện chiến tranh.

Trong 9 năm đánh Pháp, từ 1946 đến 1954, giữa chiến khu Việt Bắc, nền giáo dục mới mà GS Nguyễn Văn Huyên “thiết kế và thi công” đã xoá bỏ tận gốc chế độ giáo dục của thực dân Pháp, dùng hoàn toàn tiếng Việt trong trường học - kể cả đại học, xóa được nạn mù chữ, xây dựng hệ thống giáo dục ở miền núi cho đồng bào dân tộc thiểu số và phát triển các trường đại học, ngay tại núi rừng.
Tất cả những việc này, nói như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, là “hoàn thành trong những hoàn cảnh khó khăn lạ lùng của các cuộc kháng chiến”.
Giữa mưa bom bão đạn, các trường học liên tục bị bắn phá, nhưng ngay sau đó một ngôi trường khác bằng tranh tre lá nứa lại được dựng lên. Sinh viên chuyển từ học ngày sang học đêm. Mỗi sinh viên đi học có một chiếc lọ Penicilin đựng dầu hoả và 1 cái bấc nhỏ bằng sợi bông để có lượng ánh sáng đủ để đọc và viết.
Đến giai đoạn chống Mỹ, các em nhỏ phải đội mũ rơm, học dưới hầm, thiếu thốn đủ thứ. Nhưng bất chấp khó khăn, gian khổ, ngành giáo dục mà GS Nguyễn Văn Huyên lãnh đạo vẫn tổ chức được cho thầy trò dạy và học, vẫn động viên khuyến khích các em đến trường, thầy dạy tốt, trò học giỏi.

Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên ở làng Lại Xá, Hà Nội lưu rất nhiều kỷ vật, tư liệu về cuộc đời của GS và người vợ của ông - bà Vi Kim Ngọc. GS Nguyễn Văn Huy chỉ vào một bức ảnh và xin khách vài lời cảm nhận. Đó là bức ảnh do chính tay GS Huyên chụp vợ mình khi bà vừa sinh con đầu lòng.
Tiểu thư Vi Kim Ngọc nằm ôm con trên chiếc giường sắt tây trải nệm trắng và màn tuyn hồng nhạt. Bàn tiếp khách cạnh đó cũng trải khăn trắng. Chiếc kệ đầu giường đặt một lọ hoa cắm những cành hồng trang nhã. Căn phòng bài trí tinh tế, sang trọng. Khung cảnh êm đềm thể hiện một cuộc sống thượng lưu mà ngay cả thời hiện đại này cũng không nhiều người có được.
Đó là cuộc sống của gia đình GS Nguyễn Văn Huyên trước khi Cách mạng Tháng Tám diễn ra.
Nhưng ông và cả gia đình của mình đã từ bỏ tất cả để lên đường theo cách mạng, không luyến lưu, với một lý tưởng phụng sự nhất quán, sắt son.

Trong những trang nhật ký của mình, bà Vi Kim Ngọc chỉ tiếc nuối duy nhất một thứ, đó là bức ảnh mà bà gửi tặng ông ngày mới quen nhau. Bức ảnh mà ông nói với bà rằng “Em có đôi mắt làm anh yêu say đắm”.
Khi đi tản cư, bà đã để lại bức ảnh đó cùng nhà cửa, tài sản ở Hà Nội, không ngờ rằng chuyến đi xa ấy kéo dài hàng ngàn cây số và hơn ba ngàn ngày đằng đẵng. Sau 9 năm, quay trở lại ngôi nhà xưa thì không còn tìm thấy nữa.
Lên chiến khu, gia đình GS Nguyễn Văn Huyên ở tạm nhà sàn của đồng bào dân tộc Tày, được chủ nhà nhường cho một gian, ngay bên dưới là chuồng trâu. Sau này ông bà cùng đại gia đình còn phải di chuyển nhiều lần, chạy bom đạn giặc từ Tuyên Quang về Phú Thọ, lại từ Phú Thọ lên Tuyên Quang, gian khổ, thiếu thốn trăm bề.

Hoà bình lập lại ở miền Bắc, như mọi người dân Việt Nam lúc ấy, ông bà sống trong cảnh thanh bần. Thứ tài sản giá trị lớn nhất của tiểu thư con quan Tổng đốc là cái bàn phấn bằng gỗ có gương hình bầu dục bà mua năm 1956.
Sau này, khi con gái đầu kết hôn, món quà bà tặng cho con là chiếc bàn phấn của bà. Chiếc bàn phấn ấy lại được chị gái Bích Hà tặng cho em gái Nữ Hiếu vào ngày cưới, Nữ Hiếu lại trao tay cho em dâu Vũ Thị Kim. Khi làm Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên, vợ chồng GS Nguyễn Văn Huy đã quyết định đưa chiếc bàn phấn của mẹ để đặt vào bảo tàng, như một chứng nhân lịch sử.
Niềm đam mê lớn nhất của GS Nguyễn Văn Huyên, đồng thời là lý tưởng thời trẻ của ông là nghiên cứu khoa học. Ông nhiều lần thổ lộ về dự định quay trở lại với nghiên cứu sau khi nghỉ hưu. Nhưng tâm nguyện ấy vĩnh viễn không thể thực hiện.
GS Nguyễn Văn Huyên ra đi đột ngột trong sau ca mổ tại Đức vào năm 1975, khi vẫn đang là Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Ngày cuối cùng của cuộc đời, ông vẫn còn trách nhiệm giáo dục trên vai, vẫn ấp ủ ý tưởng dang dở về một cuộc cải cách mới, xây dựng một nền giáo dục mới cho đất nước Việt Nam thống nhất. Cho tới lúc đó, ông vẫn chưa vào được TPHCM.
Nội dung: Hoàng Hồng
Thiết kế: Tuấn Huy
Nguồn: https://dantri.com.vn/giao-duc/gs-nguyen-van-huyen-nguoi-duoc-bac-ho-yeu-cau-phai-chia-chu-cho-dan-20250821083143916.htm
Bình luận (0)