Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Kỳ tích kinh tế Việt Nam: Tăng trưởng 106 lần, dẫn đầu ASEAN và khát vọng đến năm 2045

Quá trình tinh giản bộ máy hành chính là cuộc “Đổi mới lần hai” mở ra vận hội mới và quyết tâm của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân sẽ đưa đất nước bước sang kỷ nguyên phát triển mới.

VietnamPlusVietnamPlus21/08/2025

Hành trình hiện thực hóa khát vọng trở thành nước phát triển vào năm 2045 đang đặt ra những thách thức lớn về cải cách thể chế và xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ thực sự. (Ảnh: Vietnam+)

Hành trình hiện thực hóa khát vọng trở thành nước phát triển vào năm 2045 đang đặt ra những thách thức lớn về cải cách thể chế và xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ thực sự. (Ảnh: Vietnam+)

Gần bốn thập kỷ kể từ khi khởi xướng công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã viết nên một câu chuyện phát triển kinh tế phi thường. Từ một quốc gia kiệt quệ sau chiến tranh, quy mô nền kinh tế đã tăng vọt gần 106 lần, vươn lên trở thành động lực tăng trưởng hàng đầu khu vực ASEAN. Tuy nhiên, hành trình hiện thực hóa khát vọng trở thành nước phát triển vào năm 2045 đang đặt ra những thách thức lớn về cải cách thể chế và xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ thực sự.

Từ tro tàn chiến tranh đến “ngôi sao” khu vực

Phác họa một bức tranh kinh tế “ảm đạm” của những năm đầu sau thống nhất, tiến sỹ Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), chia sẻ năm 1975, nền kinh tế gần như bị phá hủy hoàn toàn, GDP bình quân đầu người chỉ đạt 80 USD. Giai đoạn kế hoạch hóa tập trung (1976-1985) tuy có những bước khôi phục nhưng vẫn chưa thể tạo ra đột phá, đất nước chìm trong khủng hoảng kinh tế-xã hội.

Bước ngoặt lịch sử chỉ thực sự đến tại Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Những quyết sách mang tính cách mạng của công cuộc Đổi mới đã mở đường cho một giai đoạn phát triển huy hoàng. Nghị quyết Đại hội đã chỉ rõ sự cần thiết phải thay đổi tư duy, tập trung vào ba chương trình kinh tế lớn. Cụ thể là đưa nông nghiệp lên vị trí hàng đầu, phát triển công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp và phát triển công nghiệp nặng có chọn lọc.

Những quyết sách mang tính cách mạng của công cuộc Đổi mới đã mở đường cho một giai đoạn phát triển huy hoàng.

Những chính sách đột phá về nông nghiệp đã giải phóng sức sản xuất. Nhờ đó, Việt Nam từ một nước thiếu lương thực đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đặc biệt, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 ra đời đã “mở toang” cánh cửa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), theo phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại.

52822573-405035436732668-8443558387110641664-n.jpg

Những chính sách đột phá về nông nghiệp đã giải phóng sức sản xuất. (Ảnh: Vietnam+)

Kết quả đến gần như tức thì. Tiến sĩ Nguyễn Thị Hương chỉ ra quy mô GDP đến năm 1990 gấp 73 lần năm 1986. Trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản gấp 74 lần, khu vực công nghiệp và xây dựng gấp 53 lần, khu vực dịch vụ gấp hơn 88 lần. Theo đó, tăng trưởng GDP bình quân mỗi năm đạt gần 5%.

Tổng quan từ đó đến nay, “cú hích” từ công cuộc Đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, khơi thông các nguồn lực, tạo ra một giai đoạn tăng trưởng liên tục và ấn tượng. Tiến sỹ Nguyễn Thị Hương nhấn mạnh những con số thống kê là minh chứng rõ nét nhất cho kỳ tích này. Quy mô kinh tế của Việt Nam đã tăng trưởng gần 106 lần, từ 4,5 tỷ USD vào năm 1986 lên 476,3 tỷ USD ở năm 2024. Theo đó, GDP bình quân đầu người tăng từ 74 USD lên 4.700 USD, gấp hơn 63 lần. Việt Nam cũng đã chính thức ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1987-2024 của Việt Nam đạt khoảng 6,67%/năm, thuộc nhóm cao nhất khu vực và thế giới đồng thời đưa Việt Nam trở thành quốc gia dẫn đầu tăng trưởng trong nhóm ASEAN-6.

Quá trình này đi kèm với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Báo cáo từ Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đã giảm sâu từ 36,76% (1986) xuống chỉ còn 11,86% (2024). Ngược lại, khu vực công nghiệp-xây dựng và dịch vụ đã vươn lên trở thành hai trụ cột chính, chiếm lần lượt 37,64% và 42,36%. Đặc biệt, từ chỗ bị bao vây cấm vận, Việt Nam nay đã hội nhập sâu rộng, trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 ước đạt 786,29 tỷ USD, gấp 267 lần so với năm 1986. Những con số này không chỉ phản ánh sự tăng trưởng về lượng mà còn cho thấy sự cải thiện về chất, với đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng ngày càng tăng, đạt trên 43% trong giai đoạn 2021-2024.

z5060191943745-f7a839d828c517ba76ebbdefbb74ec5c.jpg

Việt Nam đã hội nhập sâu rộng, trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới. (Ảnh: Vietnam+)

Độ trễ và những rủi ro mới

Dù đạt được những thành tựu vượt bậc, hành trình phía trước của Việt Nam cũng không hề bằng phẳng. Các chuyên gia chỉ ra mô hình tăng trưởng hiện tại đang bộc lộ nhiều hạn chế và đối mặt với những thách thức từ bối cảnh toàn cầu đầy biến động.

Tiến sỹ Nguyễn Thị Hương thẳng thắn nhìn nhận: “Cơ cấu kinh tế của Việt Nam còn khá lạc hậu so với một số quốc gia trong khu vực. Nếu xét theo tiêu chí tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP, cơ cấu kinh tế của Việt Nam năm 2023 chỉ tương đương với Thái Lan năm 2011, Malaysia năm 1996, hay Hàn Quốc năm 1984.”

Điều này cho thấy Việt Nam còn một chặng đường dài để bắt kịp cơ cấu của các nước thu nhập trung bình cao.

cong-ty-co-phan-san-xuat-va-xuat-khau-que-hoi-viet-nam-2.jpg

Mô hình tăng trưởng hiện tại đang bộc lộ nhiều hạn chế và đối mặt với những thách thức từ bối cảnh toàn cầu đầy biến động. (Ảnh: Vietnam+)

Phân tích sâu hơn, thạc sỹ Phạm Thị Thanh từ Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới chỉ ra rằng mô hình tăng trưởng của Việt Nam vẫn còn dựa nhiều vào vốn và lao động giá rẻ.

“Năng suất, đổi mới sáng tạo và liên kết chuỗi giá trị còn yếu,” bà Thanh nhận định.

Trong bối cảnh hiện nay, mô hình này đang chịu tác động sâu sắc từ các xu hướng toàn cầu. Cụ thể, bà Thanh cho biết chuyển đổi Xanh và Chuyển đổi Số là hai xu hướng không thể đảo ngược. Việt Nam có cơ hội lớn để tích hợp, nhưng thách thức nằm ở năng lực hấp thụ công nghệ và thiếu cơ chế tài chính xanh hiệu quả.

Việt Nam phải có chiến lược “cân bằng linh hoạt” và nâng cao khả năng tự chủ công nghệ để không rơi vào “vòng xoáy phụ thuộc.”

Bên cạnh đó, biến động chuỗi cung ứng toàn cầu với xu hướng “friend-shoring” (chuyển sản xuất sang các nước thân thiện) đang mở ra cơ hội cho Việt Nam thu hút FDI. Tuy nhiên, bà Thanh cảnh báo nếu không cải thiện hạ tầng logistics, nâng cao năng lực doanh nghiệp và tăng tỷ lệ nội địa hóa, Việt Nam có nguy cơ chỉ trở thành điểm lắp ráp đơn thuần.

Đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh công nghệ giữa Mỹ-Trung, bà Thanh nhấn mạnh cuộc đua này buộc các quốc gia như Việt Nam phải có chiến lược “cân bằng linh hoạt” và nâng cao khả năng tự chủ công nghệ để không rơi vào “vòng xoáy phụ thuộc.”

“Những yếu tố này tạo ra cả cơ hội và rủi ro. Trong đó, cơ hội là thu hút đầu tư chiến lược vào các lĩnh vực công nghệ cao. Rủi ro là tụt hậu và mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình nếu không quyết liệt đổi mới mô hình tăng trưởng,” bà Thanh cho biết.

xv72199.jpg

Cơ hội là thu hút đầu tư chiến lược vào các lĩnh vực công nghệ cao. (Ảnh: Vietnam+)

Con đường đến năm 2045

Nhận thức rõ những thách thức, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định “Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế” là định hướng chiến lược lâu dài. Để hiện thực hóa mục tiêu này, các chuyên gia đã đưa ra nhiều khuyến nghị chính sách cụ thể.

Theo Thạc sỹ Phạm Thành Công, Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới, cần tập trung vào các đột phá chiến lược. Một là nâng cao hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô. Cụ thể là tiếp tục củng cố nền tảng vĩ mô vững chắc, kiểm soát lạm phát, xử lý hiệu quả nợ xấu và đảm bảo tính minh bạch của hệ thống tài chính-ngân hàng.

Hành trình đến năm 2045 với khát vọng trở thành một quốc gia phát triển, thu nhập cao đòi hỏi một cuộc “Đổi mới lần thứ hai” trong tư duy và hành động.

Hai là tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược. Trong đó, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút có chọn lọc các dự án FDI có tính lan tỏa cao. Kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại, tập trung vào các dự án trọng điểm quốc gia và các vùng kinh tế động lực. Về nguồn nhân lực, đổi mới căn bản giáo dục, đào tạo để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Ba là ưu tiên phát triển khoa học-công nghệ, coi đây là yếu tố trọng yếu để nâng cao năng suất, do đó cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ. Bốn là đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các ngành kinh tế: Từ cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, thị trường tài chính, đầu tư công cho đến khu vực sự nghiệp công lập. Năm là phát triển mạnh kinh tế tư nhân, tạo điều kiện để hình thành các tập đoàn kinh tế có công nghệ hiện đại, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.

cay-giong.jpg

Hình thành các tập đoàn kinh tế có công nghệ hiện đại, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. (Ảnh: Vietnam+)

Sáu là đổi mới liên kết vùng và phát triển đô thị, thông qua xây dựng thể chế điều phối phát triển kinh tế vùng hiệu quả, kiểm soát quá trình đô thị hóa gắn với phát triển bền vững. Bảy là nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước. Mục tiêu xây dựng một nhà nước kiến tạo, phục vụ, với bộ máy tinh gọn, liêm chính và hiệu quả.

Bổ sung thêm góc nhìn cụ thể, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hương đề xuất một số giải pháp cấp bách nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong đó, chú trọng ưu tiên phát triển khoa học công nghệ, đi nhanh vào hiện đại hóa ở những ngành then chốt, đặc biệt là các ngành công nghệ cao. Tiếp đến là thúc đẩy mạnh mẽ các ngành dịch vụ có hàm lượng tri thức cao như du lịch, hàng không, công nghệ thông tin, y tế chất lượng cao. Bên cạnh đó cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, tập trung vào các lĩnh vực mà tư nhân chưa thể hoặc không muốn đầu tư.

Tuy nhiên, kỳ tích của quá khứ không phải là “tấm vé” đảm bảo cho thành công trong tương lai.

Bên cạnh đó, bà Hương nhấn mạnh đặc biệt cần tạo môi trường thuận lợi cho chuyển giao công nghệ đồng thời xây dựng chiến lược phát triển nhân lực gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội.

Chặng đường gần 40 năm Đổi mới đã chứng kiến sự trỗi dậy ngoạn mục của kinh tế Việt Nam. Từ một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh, Việt Nam đã vươn mình trở thành một điểm sáng tăng trưởng của thế giới. Tuy nhiên, kỳ tích của quá khứ không phải là “tấm vé” đảm bảo cho thành công trong tương lai.

Hành trình đến năm 2045 với khát vọng trở thành một quốc gia phát triển, thu nhập cao đòi hỏi một cuộc “Đổi mới lần thứ hai” trong tư duy và hành động với trọng tâm là đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát huy nội lực dân tộc.

Theo đó, quá trình giản bộ máy hành chính đang được xem là cuộc “Đổi mới lần hai” để mở ra những vận hội mới cho đất nước. Dù sẽ đối mặt nhiều khó khăn, đặc biệt là về yếu tố con người, nhưng với quyết tâm và nỗ lực cao của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân sẽ đưa đất nước bước sang một kỷ nguyên phát triển mới./.

z2663334445720-9eaf85f4d1df1e1bde7906f81416ae89.jpg

Chặng đường gần 40 năm Đổi mới đã chứng kiến sự trỗi dậy ngoạn mục của kinh tế Việt Nam. (Ảnh: Vietnam+)

(Vietnam+)

Nguồn:https://www.vietnamplus.vn/ky-tich-kinh-te-viet-nam-tang-truong-106-lan-dan-dau-asean-va-khat-vong-den-nam-2045-post1056426.vnp


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Yêu nước theo cách của người trẻ
Người dân hân hoan chào đón đại lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh
Đội tuyển nữ Việt Nam thắng Thái Lan để giành HCĐ: Hải Yến, Huỳnh Như, Bích Thùy tỏa sáng
Dòng người đổ về Hà Nội, hòa mình vào không khí hào hùng trước thềm Quốc khánh

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm