Gắn di sản văn hóa với phát triển du lịch có chọn lọc
Ông Nguyễn Chu Thu, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. |
Sau hợp nhất, tỉnh Thái Nguyên sở hữu nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch gắn với di sản văn hóa. Với vị trí địa lý trung tâm, hệ thống giao thông kết nối tốt, cùng nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa phong phú, Thái Nguyên đang nắm trong tay một “kho báu” di sản quý giá, với gần 1.200 di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, trong đó có 3 di tích quốc gia đặc biệt, 67 di tích quốc gia, 322 di tích cấp tỉnh và hàng trăm di tích chưa được xếp hạng. Cùng với đó trên địa bàn tỉnh còn có 43 di sản văn hóa phi vật thể đã được công nhận cấp quốc gia.
Trong bối cảnh mới, chúng tôi xác định rõ: Bảo tồn di sản không thể tách rời khỏi phát triển du lịch, nhưng phải gắn kết một cách chọn lọc và có định hướng.
Di sản là nguồn tài nguyên đặc biệt hấp dẫn du khách, nhất là đối với loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng, du lịch tâm linh... Ngược lại, chính hoạt động du lịch nếu được tổ chức bài bản sẽ giúp giá trị di sản được lan tỏa rộng rãi, được “sống dậy” trong đời sống, góp phần bảo tồn hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, việc khai thác quá mức, thiếu định hướng có thể khiến di sản bị thương mại hóa, biến dạng, thậm chí mất đi giá trị gốc.
Do đó, Thái Nguyên chủ trương phát triển du lịch trên nền tảng di sản một cách có chọn lọc, đặt yếu tố bảo tồn lên hàng đầu. Những năm qua, tỉnh đã tập trung kiểm kê, phục dựng, tôn tạo di tích; khôi phục lễ hội truyền thống; bảo tồn di sản phi vật thể, đặc biệt là di sản của đồng bào dân tộc thiểu số.
Để gắn di sản văn hóa với phát triển du lịch có chọn lọc, trong thời gian tới, tỉnh đẩy mạnh xây dựng các sản phẩm du lịch gắn với các di sản văn hóa, như: Phát huy giá trị di sản của di tích lịch sử đẩy mạnh tour du lịch về nguồn tại ATK Định Hóa, ATK Chợ Đồn, Khu di tích lịch sử Nà Tu…; Khai thác du lịch văn hóa trà và ẩm thực đặc trưng: Khám phá văn hóa trà Tân Cương, phát triển các sản phẩm du lịch ẩm thực, giới thiệu đặc sản địa phương, đặc biệt là các sản phẩm OCOP, tạo thành chuỗi sản phẩm phục vụ du lịch; trải nghiệm du lịch cộng đồng tại La Bằng, Khu du lịch Ba Bể; Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể phục vụ du lịch: Các lễ hội Lồng tồng, Cầu mùa, trải nghiệm văn hóa văn nghệ dân gian truyền thống như hát Then, đàn Tính, múa Tắc Xình, nghệ thuật khèn Mông...
Các hoạt động này vừa thu hút du khách, vừa tạo sinh kế cho người dân và gắn kết họ vào quá trình bảo tồn. Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng cũng được chú trọng, bởi người dân chính là chủ thể gìn giữ và phát huy giá trị di sản.
Trong thời gian tới, Thái Nguyên sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, quy hoạch phát triển du lịch gắn với văn hóa; đồng thời tăng cường phối hợp liên ngành, thu hút đầu tư có chọn lọc, hướng tới mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng trên nền tảng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Phát huy giá trị di sản văn hóa qua du lịch
Ông Nguyễn Mạnh Thường, Trưởng Ban Quản lý các Khu Di tích Quốc gia đặc biệt tỉnh Thái Nguyên. |
Hướng tới mục tiêu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, Thái Nguyên đang tập trung nguồn lực để đánh thức tiềm năng du lịch gắn với di sản văn hóa. Với hơn 1.000 di tích danh thắng, trong đó có 3 di tích quốc gia đặc biệt (ATK Định Hóa, ATK Chợ Đồn, danh thắng hồ Ba Bể), Thái Nguyên sở hữu kho tàng văn hóa – lịch sử phong phú, đa dạng.
Du lịch Thái Nguyên ngày càng hấp dẫn nhờ hệ thống giao thông thuận tiện, thiên nhiên ưu đãi và sự giao thoa văn hóa của nhiều dân tộc.
Tỉnh đã định hướng phát triển các loại hình du lịch chủ lực như: du lịch văn hóa, tâm linh, lịch sử; du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng; du lịch cộng đồng gắn với văn hóa trà. Đặc biệt, các sản phẩm du lịch đang được xây dựng theo hướng độc đáo, có thương hiệu, cạnh tranh cao, kết hợp chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ 4.0 để quảng bá, xúc tiến hiệu quả.
Bên cạnh phát triển sản phẩm, công tác bảo tồn di sản văn hóa luôn được chú trọng. Hầu hết các di tích cách mạng thuộc các quần thể di tích đặc biệt đã được phục dựng, trùng tu và gắn bia ghi dấu lịch sử. Tỉnh cũng đang triển khai hỗ trợ phát triển 5 điểm du lịch cộng đồng tiêu biểu, trong đó có các điểm gắn với văn hóa trà và du lịch về nguồn.
Việc phát triển du lịch bền vững gắn với bảo tồn văn hóa là hướng đi được xác định rõ. Các yếu tố văn hóa được lồng ghép trong hoạt động du lịch không chỉ tạo thêm trải nghiệm cho du khách mà còn góp phần gìn giữ bản sắc, tránh nguy cơ thương mại hóa, mai một giá trị truyền thống.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, Thái Nguyên tập trung vào các giải pháp: Quy hoạch tổng thể gắn bảo tồn với phát triển, đầu tư hạ tầng, dịch vụ và đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng sản phẩm du lịch mang dấu ấn địa phương, lấy cộng đồng làm chủ thể; tổ chức các hoạt động tu bổ di tích, trao truyền văn hóa, trải nghiệm ẩm thực dân tộc; nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị di sản và sinh kế từ du lịch; tăng cường hợp tác giữa chính quyền, doanh nghiệp, nhà khoa học và cộng đồng để phát triển bền vững.
Với tiềm năng phong phú và định hướng rõ ràng, Thái Nguyên đang từng bước hình thành mạng lưới du lịch đa dạng, sâu sắc về văn hóa. Đây chính là nền tảng để đưa Thái Nguyên trở thành điểm đến hấp dẫn, giàu bản sắc trong tương lai gần.
Di sản văn hóa, nền tảng du lịch bền vững
Ông Đỗ Trọng Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch tỉnh Thái Nguyên. |
Di sản văn hóa là kết tinh sống động của lịch sử và ký ức cộng đồng, nơi lưu giữ hồn cốt dân tộc qua nếp sống, phong tục, tín ngưỡng và nghệ thuật truyền thống. Trong bối cảnh ngành Du lịch đang hướng tới mô hình phát triển "xanh, bản sắc, nhân văn", di sản văn hóa ngày càng khẳng định vai trò trụ cột, tạo nền tảng vững chắc cho một ngành du lịch bền vững, có chiều sâu và bản sắc riêng biệt.
Giá trị của di sản không chỉ ở khía cạnh thẩm mỹ hay lịch sử, mà còn nằm ở chức năng giáo dục, khơi gợi niềm tự hào dân tộc, gắn kết cộng đồng và cả tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những lớp giá trị ấy, nhiều địa phương, trong đó có Thái Nguyên, đã và đang khai thác thành công tài nguyên văn hóa để phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng, hấp dẫn, mang tính bền vững và khác biệt.
Thái Nguyên, vùng đất giàu truyền thống cách mạng, nơi hội tụ nhiều di sản quý, như: Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, đền Lý Nam Đế, không gian văn hóa trà Tân Cương - biểu tượng tinh hoa trà Việt, cùng hàng trăm lễ hội dân gian của đồng bào Tày, Nùng, Dao, Mông, Sán Dìu…
Đây là kho tàng văn hóa phong phú, đậm bản sắc bản địa, tạo lợi thế lớn để phát triển các loại hình du lịch văn hóa - lịch sử - trải nghiệm. Không ngẫu nhiên khi các tour du lịch về nguồn, cộng đồng gắn với làng trà, làng nghề, ẩm thực địa phương tại Thái Nguyên ngày càng thu hút khách trong và ngoài nước, nhất là du khách quốc tế ưa chuộng khám phá chiều sâu văn hóa.
Đặc biệt, di sản văn hóa còn là “cầu nối” để người dân địa phương tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch. Khi cộng đồng được đào tạo làm hướng dẫn viên bản địa, cung cấp dịch vụ tại các di tích, lễ hội hay làng nghề, họ không chỉ cải thiện thu nhập mà còn trở thành những “người giữ hồn” cho di sản, bằng lòng yêu nghề, tự hào và trách nhiệm với quê hương.
Tuy nhiên, để phát triển du lịch dựa trên di sản một cách bền vững, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, doanh nghiệp, cộng đồng và các tổ chức xã hội.
Việc bảo tồn phải gắn liền với khai thác hợp lý, giữ gìn bản sắc cần đi cùng sáng tạo, đổi mới sản phẩm phù hợp với nhu cầu và xu hướng của du khách hiện đại. Cần có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ cho chuyển đổi số, truyền thông, đổi mới sáng tạo và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Với vai trò là Chủ tịch Hiệp hội Du lịch tỉnh Thái Nguyên, tôi khẳng định: Di sản văn hóa chính là “nguyên liệu vàng” để xây dựng thương hiệu du lịch Thái Nguyên một cách bền vững, khác biệt và có sức lan tỏa mạnh mẽ. Chúng tôi cam kết sẽ tiếp tục đồng hành cùng chính quyền và cộng đồng gìn giữ, phát huy giá trị di sản, xem đó là con đường để phát triển du lịch trong giai đoạn mới.
Cộng đồng kết nối chè với du lịch
Nghệ nhân Nguyễn Thị Hải, Chủ tịch Hội chè xã La Bằng. |
Xã La Bằng, một trong “Tứ đại danh trà” của tỉnh Thái Nguyên. Không chỉ nổi danh bởi những nương chè xanh mướt trải dài trên các triền đồi, mà còn tự hào sở hữu những “báu vật sống” quý giá, đó là quần thể chè móng rồng cổ thụ hàng trăm năm tuổi trên dãy núi Tam Đảo.
Với người dân La Bằng, những nương chè không chỉ nuôi sống con người, mà còn là ký ức sống động về lịch sử canh tác, truyền thống lao động gắn liền với bao thế hệ. Mỗi nương chè đều gắn bó với bao kỷ niệm đời người, đồng thời là biểu tượng cho bản lĩnh, tình yêu đất, yêu nghề của người làm chè.
Đặc biệt mới đây chúng tôi phát hiện được quần thể chè móng rồng cổ thụ trên lưng núi Tam Đảo, ở vị trí cách trung tâm xã khoảng hơn 3 giờ leo núi. Những cây chè cổ thụ ấy - dù mới phát hiện nhưng là niềm tự hào của người dân địa phương. Nhiều người ví đó là cây di sản và tự đặt trách nhiệm cần phải gìn giữ, đồng thời khai thác phục vụ khách du lịch. Nếu mở tuyến du lịch này, sẽ bắt đầu từ khung cảnh đẹp của các nương chè được chăm sóc bằng phương pháp hữu cơ, không hóa chất độc hại, với các sản phẩm chè OCOP đến quần thể chè cổ trên lưng núi Tam Đảo.
Thực tế từ nhiều năm nay vùng chè La Bằng đã là một điểm đến thân thiện với môi trường tự nhiên của ngành Du lịch. Người dân tham gia làm du lịch bằng tâm huyết và tri thức. Trong từng khâu, từ trồng, chăm sóc, thu hái đến sao chè và đóng gói đều kết hợp giữa kinh nghiệm cha ông truyền lại với kỹ thuật hiện đại.
Trong đời sống hằng ngày, nông dân xã La Bằng còn là người kể chuyện chè một cách sống động nhất qua mô hình du lịch trải nghiệm. Du khách đến La Bằng không chỉ để thưởng trà, mà để sống giữa đồi chè, được nghe kể chuyện về đất và người vùng chè. Mộc mạc, nhưng họ chính là “đại sứ” văn hóa trà.
Chính cộng đồng là yếu tố then chốt để kết nối chè với du lịch bền vững. Không có cộng đồng, không có ký ức sống và cũng không có văn hóa thực thụ. Mọi hoạt động bảo tồn và phát triển di sản văn hóa chè và trà phải bắt đầu từ người dân. Bởi khi cộng đồng được đặt vào vị trí trung tâm, vừa là chủ thể gìn giữ, vừa là lực lượng sáng tạo thì di sản văn hóa trà mới thực sự có sức sống, và du lịch mới trở thành con đường lan tỏa bản sắc văn hóa một cách bền vững và sâu sắc nhất.
Du lịch làm nên sức sống cho di sản
Bà Lê Thị Nga, Phó Giám đốc Khu bảo tồn Làng nhà sàn du lịch sinh thái Thái Hải. |
Chúng tôi không xem văn hóa là thứ để trưng bày, mà là thứ để sống cùng và trao truyền. Mỗi mái nhà sàn, điệu Then, nếp sống của đồng bào nơi đây đều là hiện thân sống động của một nền văn hóa lâu đời, giàu bản sắc. Du lịch Thái Hải vì thế không chỉ gói gọn trong ba yếu tố nổi bật: Kiến trúc nhà sàn, ẩm thực và văn hóa Tày, mà quan trọng hơn là trải nghiệm sống thực giữa đời thường.
Du khách đến Thái Hải không chỉ được chiêm ngưỡng nhà sàn cổ được bảo tồn nguyên bản, mà còn được trực tiếp sử dụng những vật dụng truyền thống đang hiện diện trong đời sống sinh hoạt hằng ngày như thúng mủng, chum đựng nước, cày, cuốc, nơm úp cá. Ẩm thực cũng là phần trải nghiệm không thể thiếu: Bánh chưng, bánh gai, chè lam, cơm lam, rượu men lá... Tất cả đều thủ công, mang đậm hương vị bản địa không thể trộn lẫn.
Không gian Thái Hải còn là nơi hội tụ của nhiều giá trị văn hóa phi vật thể. Những làn điệu Then, tiếng đàn tính vang giữa bản làng xanh mướt, lễ hội lồng tồng rộn ràng đầu xuân không chỉ là màn trình diễn mà là ký ức văn hóa được tái hiện sống động. Mỗi tiết mục đều gắn với một câu chuyện, một truyền thống, khiến du khách cảm thấy như được sống trong một không gian văn hóa thuần khiết và sâu sắc.
Toàn bộ cư dân trong làng đều mặc áo chàm, sống trong nhà sàn, ăn chung một nồi cơm, một đời sống cộng đồng nguyên vẹn. Du khách không chỉ tham quan, mà còn trực tiếp trải nghiệm cùng người dân đi hái rau, gói bánh, nấu cơm, dệt vải hay tham gia nghi lễ truyền thống của dân tộc Tày. Chính sự hòa nhập ấy đã làm nên sức hút đặc biệt của Thái Hải.
Chúng tôi tin rằng, khi du lịch gắn liền với di sản, không chỉ bản làng phát triển, mà chính di sản cũng được bảo tồn bền vững. Mỗi du khách đến với Thái Hải là một nhịp cầu kết nối, giúp di sản bước ra khỏi bản làng để chạm đến trái tim nhiều người hơn mà không mất đi bản sắc. Năm 2022, Làng được Tổ chức Du lịch Thế giới vinh danh là “Làng du lịch tốt nhất thế giới”. Đầu 2025, Làng tiếp tục trở thành một trong hai điểm du lịch đầu tiên tại Việt Nam đạt chứng nhận OCOP 5 sao cấp quốc gia.
Giữ hồn di sản không phải là dựng lại, mà là sống cùng nó mỗi ngày
Ông Đặng Văn Hùng, chủ Ba Bể Farmstay, xã Ba Bể. |
Làm du lịch với tôi không phải chỉ để làm giàu, mà là cách để giữ lấy những gì cha ông để lại – cái hồn của núi, của bản, của người Dao chúng tôi.
Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng núi Ba Bể, Bắc Kạn – nơi thiên nhiên hùng vĩ, con người thì chân chất, nhưng cuộc sống ngày xưa nghèo. Hơn 10 năm trước, tôi còn đang quất trâu đi bừa thì tình cờ gặp đoàn khách nước ngoài. Họ gợi ý: “Sao không làm homestay?”. Câu nói đó giống như một tia sáng. Tôi bắt đầu với 4 cái đệm và 2 nhà vệ sinh, vừa làm vừa học.
Với tôi, “giữ hồn di sản” không phải là bày ra vài món đồ cũ, dựng lại một cái nhà truyền thống cho đẹp. Mà phải sống thật với nó, để du khách cảm nhận được cái bản sắc ấy bằng tất cả giác quan: Từ mùi khói bếp, vị bánh chưng đen của người Dao, tiếng hát bên ánh lửa, cho đến cách bà con nói chuyện chân tình, mộc mạc.
Du lịch trải nghiệm, du lịch cộng đồng – nghe thì mới nhưng thực chất là cách mình gắn du lịch với đời sống thật của người địa phương. Tôi không làm một mình. Tôi liên kết bà con đi hái lá thuốc, tổ chức cho khách đi gặt lúa, bắt tôm, nghe đàn tính. Như vậy, không chỉ tôi sống được bằng di sản, mà cả bản cũng sống được.
Tôi luôn tin: Muốn phát triển bền vững thì phải tôn trọng văn hóa bản địa. Tôi không chạy theo số lượng khách, tôi chọn khách phù hợp – người yêu thiên nhiên, yêu văn hóa. Tôi tự học tiếng Anh, tự dẫn tour, và tự sửa nhà sao cho vừa tiện nghi nhưng vẫn giữ được cái hồn nhà gỗ, mái lá, cột kèo cũ.
Giữ hồn di sản trong dòng chảy du lịch, với tôi, là làm sao để người khách Tây, khách Việt khi rời đi đều nhớ được mùi cỏ sau mưa, tiếng dế đêm bản, và những bữa cơm có vị rừng. Đó không phải là sản phẩm – đó là trải nghiệm, là cảm xúc – thứ mà chỉ sự chân thành và gắn bó với văn hóa mới tạo ra được.
Nguồn: https://baothainguyen.vn/van-nghe-thai-nguyen/202508/giu-hon-di-san-dua-van-hoa-thanh-mach-chay-trong-phat-trien-du-lich-thai-nguyen-c1a62f4/
Bình luận (0)