Phát huy dân chủ, tinh thần phục vụ nhân dân trong công tác xây dựng pháp luật
Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30-4-2025, của Bộ Chính trị, “Về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” (sau đây gọi là Nghị quyết số 66-NQ/TW) yêu cầu “phát huy dân chủ” trong công tác xây dựng pháp luật, “thực hiện nghiêm túc cơ chế tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của các đối tượng chịu sự tác động”. Đồng thời, công tác xây dựng pháp luật dựa trên quan điểm “phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sự tham gia rộng rãi, thực chất của người dân, tổ chức, doanh nghiệp trong xây dựng và thi hành pháp luật”.
Phát huy dân chủ, mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc quản lý nhà nước, nhằm bảo đảm cho Nhà nước giữ vững bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách, pháp luật được ban hành đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm ngay sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (Điều thứ 1 và Điều thứ 7 của Hiến pháp năm 1946). Việc mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc quản lý nhà nước, xây dựng chính sách, pháp luật ở nước ta tiếp tục được đề cao (Điều 28, Hiến pháp năm 2013).
Có thể nhận thấy, sự thay đổi và phát triển nhanh về kinh tế, xã hội, nhất là trong điều kiện hình thành xã hội thông tin dẫn đến những thay đổi và cả những thách thức đối với việc bảo đảm tốt hơn các quyền công dân, đặc biệt là các quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân(1). Việc mở rộng sự tham gia của công dân vào công việc quản lý nhà nước, nhất là trong xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật ở nước ta tiếp tục được đề cao trong những năm qua. Sự tham gia của người dân vào các quá trình ra quyết định, các hoạt động quản lý nhà nước đã được thể chế hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam(2) (Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở...). Các luật quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên... đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội tham gia công việc quản lý nhà nước, thực hiện giám sát và phản biện xã hội.
Hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt động thể chế hóa, gia tăng các tư tưởng, giá trị, nội dung dân chủ, quyền con người, pháp luật, pháp quyền(3). Hoạt động này xây dựng nên hệ thống thể chế pháp luật để phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, thúc đẩy phát triển đất nước. Trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật, hiện nay Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP, ngày 1-4-2025, của Chính phủ, “Quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật” đã quy định việc tham gia của người dân vào quá trình soạn thảo, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Phương thức để người dân tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, vào công việc quản lý của Nhà nước đã được quy định rất đa dạng, phong phú. Bên cạnh đó, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã bổ sung hình thức lấy ý kiến tham vấn chính sách trong quá trình xây dựng chính sách dự án luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đây là một trong những hình thức mới nhằm khắc phục hạn chế trong quy trình xây dựng pháp luật, nhất là trong quy trình lập đề nghị việc xây dựng chính sách chưa được quan tâm đúng mức, chính sách đề ra còn chung chung. Thông qua hoạt động tham vấn chính sách, cơ quan đề xuất chính sách sẽ tìm kiếm sự đồng thuận, lựa chọn giải pháp tối ưu, hoàn thiện chính sách làm cơ sở soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, cũng như bảo đảm tính khả thi của chính sách trong cuộc sống(4).
Nghị quyết số 66-NQ/TW chỉ rõ, công tác xây dựng và thi hành pháp luật còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số chủ trương, định hướng của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ. Tư duy xây dựng pháp luật trong một số lĩnh vực còn thiên về quản lý. Chất lượng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Còn có những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa rõ ràng, cản trở việc thực thi, không thuận lợi cho việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút và khơi thông nguồn lực đầu tư.
Thời gian tới, để tiếp tục phát huy dân chủ, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; bảo đảm sự cân đối, hợp lý giữa mức độ quyền với lợi ích chính đáng theo tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị, cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, thực hiện nghiêm túc cơ chế tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của các đối tượng chịu sự tác động, người dân và doanh nghiệp trong quá trình xây dựng, hoàn thiện, tổ chức thi hành chính sách, pháp luật; không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong thiết kế chính sách và xây dựng pháp luật. Hệ thống pháp luật cần định hình đầy đủ hơn, rõ nét hơn cơ chế và cách thức để người dân tham gia quản lý nhà nước. Cơ quan có thẩm quyền cần bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin về nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi quyết định để người dân có đủ thông tin cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân chia sẻ, trao đổi, thảo luận để hình thành ý kiến chất lượng nhất. Tăng cường đối thoại, tiếp nhận, lắng nghe phản ánh, kiến nghị, giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc về pháp lý của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, địa phương.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm “phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng trong quá trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trong việc phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”(5). Phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sự tham gia rộng rãi, thực chất của người dân, tổ chức, doanh nghiệp trong xây dựng và thi hành pháp luật, góp phần mở rộng dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội đối với việc xây dựng và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Nghiên cứu xây dựng quy trình cụ thể để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án của cơ quan nhà nước.
Thứ ba, tạo đột phá trong công tác thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực và hiệu quả; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng và thi hành pháp luật. Điều này đặt ra yêu cầu đổi mới tư duy thi hành pháp luật, lấy phát huy dân chủ và bảo vệ quyền con người chất lượng, hiệu quả hơn làm trọng tâm; hoàn thiện cơ chế gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thi hành pháp luật; chú trọng hoạt động thi hành pháp luật; bảo đảm thi hành pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt và tăng cường nguồn lực cho thi hành pháp luật.
Công tác xây dựng pháp luật phải tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân
Đề cập tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định, Việt Nam có hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến và phù hợp với thực tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, Nghị quyết định hướng, bên cạnh một số bộ luật, luật quy định về quyền con người, quyền công dân, tố tụng tư pháp cần cụ thể, về cơ bản các luật khác, nhất là luật điều chỉnh các nội dung về kiến tạo phát triển chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội, còn những vấn đề thực tiễn thường xuyên biến động thì giao Chính phủ, bộ, ngành, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt, phù hợp với thực tiễn.
Trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (đặc biệt là giai đoạn hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013), Việt Nam đã xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân(6). Hầu hết lĩnh vực liên quan đến các quyền con người cơ bản đã có văn bản ở cấp độ luật hoặc pháp lệnh điều chỉnh(7). Có thể thấy rằng, ở mức độ khác nhau, các quyền con người, quyền công dân thuộc các nhóm quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa đã được luật hóa, bảo đảm thực hiện các quyền về tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và tôn giáo, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý đất nước; thể hiện sự tiến bộ hơn trong việc xác lập và thực thi các quyền về an sinh xã hội, thực hiện xóa đói, giảm nghèo và hỗ trợ người dân tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, bảo vệ nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội(8). Cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng được quy định cụ thể trong các đạo luật thông qua việc trực tiếp quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, trách nhiệm của tổ chức và cá nhân khác liên quan; quy định việc tăng cường trách nhiệm, bảo đảm sự đúng đắn, nghiêm minh, công bằng trong hoạt động của cơ quan nhà nước; trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi vi phạm để xảy ra thiệt hại cho công dân; có cơ chế bảo đảm quyền khiếu nại, khởi kiện, tố cáo nhằm bảo vệ các quyền con người nói chung. Nhiều đạo luật quy định khá cụ thể, toàn diện biện pháp bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân, nhất là đạo luật có nhiệm vụ cụ thể hóa trực tiếp các quyền mà Hiến pháp giao, hạn chế tối đa các điều khoản ủy quyền quy định chi tiết thi hành luật(9). Tuy vậy, pháp luật về quyền con người, quyền công dân còn có hạn chế nhất định (một số quyền hiến định chưa được thể chế hóa, một số quy định pháp luật về quyền còn bất cập, cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền chưa thực sự đầy đủ, hiệu quả). Để tiếp tục xây dựng pháp luật nhằm tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân theo Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật nhằm thể chế hóa các quyền con người, quyền công dân. Theo đó, cần tiếp tục rà soát, thúc đẩy hoạt động soạn thảo, thông qua các luật về các quyền đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Điều này đóng vai trò rất quan trọng trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền. Bên cạnh đó, tiếp tục rà soát, hoàn thiện pháp luật về các nhóm quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Cần tiếp tục chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển trong xây dựng và thi hành pháp luật nói chung, pháp luật về quyền con người, quyền công dân nói riêng. Pháp luật là nhân tố cơ bản nhất, cốt yếu nhất của khái niệm kiến tạo phát triển(10). Theo đó, phải lấy giá trị phổ quát về bảo vệ quyền con người làm định hướng trong việc xây dựng, thi hành pháp luật; làm rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ thể liên quan trong quá trình xây dựng, thi hành pháp luật.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý nhằm thích ứng với thách thức của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Về tổng thể, việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong bối cảnh sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư… cần gắn với giá trị phổ quát về bảo vệ quyền con người, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam; bảo đảm các yêu cầu đối ngoại, đối nội, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước trước bối cảnh mới.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo đảm, thiết chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân; tăng cường giáo dục nhằm nâng cao năng lực và nhận thức tại trường học và các cơ quan thực thi pháp luật về quyền con người; thúc đẩy đóng góp của truyền thông công cộng về quyền con người; nâng cao nhận thức về pháp luật quốc tế về quyền con người, các cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc và khu vực về quyền con người mà Việt Nam tham gia; nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân trong việc “tiếp cận dựa trên quyền” đối với các nhóm dễ bị tổn thương. Tiếp tục nghiên cứu khả năng thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Công tác xây dựng pháp luật phải bảo đảm sự cân đối, hợp lý giữa mức độ hạn chế quyền với lợi ích chính đáng đạt được
Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị yêu cầu công tác xây dựng pháp luật phải bảo đảm sự cân đối, hợp lý giữa mức độ hạn chế quyền với lợi ích chính đáng đạt được. Nghị quyết yêu cầu dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. Như vậy, Nghị quyết đã đưa ra định hướng đối với công tác xây dựng pháp luật phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Hạn chế quyền là quy định được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 (UDHR) và một số điều ước quốc tế về quyền con người mà bản chất của nó là cho phép quốc gia thành viên quy định một số giới hạn bởi luật về việc thực hiện/thụ hưởng một số quyền con người nhất định gắn với yêu cầu về đạo đức, trật tự công cộng, phúc lợi chung. Nguyên tắc chung về hạn chế quyền đã được hiến định lần đầu tiên tại Điều 14, Hiến pháp năm 2013. Đây là một bước tiến lớn trong tư duy lập hiến của nước ta. Để bảo đảm sự cân đối, hợp lý giữa mức độ hạn chế quyền với việc bảo vệ lợi ích chung, cần tiếp tục quan tâm nghiên cứu cụ thể hóa một số vấn đề, như quy định của Hiến pháp năm 2013 về việc quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, đặt trong bối cảnh hướng đến mục đích cao nhất là bảo vệ quyền của cộng đồng và của nhiều người khác...
Không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong thiết kế chính sách và xây dựng pháp luật
Yêu cầu của Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị liên quan mật thiết đến quyền của người dân, doanh nghiệp (nhất là trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại). Nếu pháp luật quy định không phù hợp, gây khó khăn cho đối tượng chịu sự tác động sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền của người dân, doanh nghiệp. Khi đó, pháp luật khó được thực thi và quyền của chủ thể không được bảo đảm. Trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật được xác định mục tiêu rõ ràng nhằm tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Yêu cầu đổi mới mạnh mẽ tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Đồng thời, cần tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy chuyển đổi số. Cần chủ động, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế khuyến khích cho vấn đề mới, dự án công nghệ cao, dự án lớn, xu hướng mới, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn(11).
Có thể thấy, các xu hướng, mô hình phát triển mới rất cần có chính sách mới để nuôi dưỡng và tạo cơ hội cho các mô hình kinh doanh mới phát triển. Cơ chế quản lý cũng cần thích ứng với mô hình kinh doanh mới, đòi hỏi hệ thống pháp luật mới linh hoạt hơn, chấp nhận rủi ro nhất định. Các mô hình mới, như công nghệ tài chính (fintech), cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) hay cơ chế thí điểm như kinh tế tuần hoàn... đã và đang đặt ra nhiều thách thức trong việc xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý tạo cơ sở cho nhà đầu tư tham gia vào các lĩnh vực này. Theo đó, ngày 7-6-2022, “Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam” đã được phê duyệt, trong đó nhấn mạnh tư duy hướng tới khía cạnh “kinh tế” của mô hình kinh tế tuần hoàn và nhấn mạnh một quan điểm về “tập trung ban hành các chính sách dài hạn nhằm khuyến khích, ưu đãi, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế tuần hoàn, gắn với lộ trình, kết quả cụ thể, đồng thời hoàn thiện cơ sở pháp lý vững chắc và tạo dựng sự linh hoạt, chủ động nhằm sớm phát huy mô hình kinh tế tuần hoàn theo cấp độ phù hợp ở các ngành, lĩnh vực, địa phương”. Bên cạnh đó, ngày 29-4-2025, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng đối với việc triển khai sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới thông qua ứng dụng giải pháp công nghệ tài chính đã được ban hành với mục tiêu: Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hiện đại hóa lĩnh vực ngân hàng, qua đó hiện thực hóa mục tiêu phổ cập tài chính cho người dân và doanh nghiệp theo hướng minh bạch, thuận tiện, an toàn, hiệu quả với chi phí thấp; tạo lập môi trường thử nghiệm nhằm đánh giá rủi ro, chi phí, lợi ích của giải pháp fintech; hỗ trợ xây dựng, phát triển các giải pháp fintech phù hợp với nhu cầu thị trường, khung khổ pháp lý, quy định quản lý; hạn chế rủi ro xảy ra đối với khách hàng khi sử dụng các giải pháp fintech do tổ chức tham gia cơ chế thử nghiệm cung cấp; kết quả triển khai thử nghiệm giải pháp fintech được sử dụng làm căn cứ thực tiễn để cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý, quy định quản lý liên quan nếu cần thiết./.
-----------------------
(1) Xem: Nguyễn Văn Cương, Trương Hồng Quang: “Cơ chế bảo đảm sự tham gia của Nhân dân trong hoạt động của cơ quan nhà nước trước yêu cầu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15-2022, tr. 3-12
(2) Lê Văn Chiến: “Sự tham gia của người dân vào quản lý xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí điện tử Lý luận chính trị, ngày 23-1-2020, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/3033-su-tham-gia-cua-nguoi-dan-vao-quan-ly-xa-hoi-o-viet-nam.html
(3) Võ Khánh Vinh: “Đổi mới xây dựng pháp luật phải theo hướng phát huy dân chủ và bảo vệ quyền con người”, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, ngày 21-02-2025, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=4490
(4) “Những điểm mới có tính đột phá của Luật Ban hành VBQPPL năm 2025”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 11-3-2025, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/nhung-diem-moi-co-tinh-dot-pha-cua-luat-ban-hanh-van-ban-quy-pham-phap-luat-nam-2025-119250311121042727.htm
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 288-289
(6) Trương Hồng Quang (Chủ biên): 10 năm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: Thành tựu và triển vọng phát triển (Sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024, tr. 95
(7) Xem: Báo cáo số 344/BC-CP, ngày 22-8-2019, của Chính phủ, về “Sơ kết 05 năm triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 (2014-2019)”, tr. 9-16
(8) Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý, Nguyễn Văn Cương (Chủ biên): Nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2030, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 185
(9) Ví dụ: Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân được quy định trong Điều 33 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016
(10) Xem: Đinh Dũng Sỹ: “Hệ thống pháp luật Việt Nam trong tiến trình đổi mới và phát triển đất nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1-2020, tr. 3-10, 16
(11) Chân Luận: “Xây dựng luật để không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp”, Báo điện tử Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12-2-2025, https://plo.vn/xay-dung-luat-de-khong-day-kho-khan-cho-nguoi-dan-doanh-nghiep-post833839.html
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/1126002/doi-moi-cong-tac-xay-dung-phap-luat%2C-xay-dung-he-thong-phap-luat-hien-dai%2C-ton-trong%2C-bao-dam%2C-bao-ve-hieu-qua-quyen-con-nguoi%2C-quyen-cong-dan.aspx
Bình luận (0)