PGS.TS Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm chia sẻ thông tin- Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Tại tọa đàm, bà Nghiêm Phương Thúy, đại diện Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết, dự thảo lần này là bước hoàn thiện khung pháp lý nhằm cụ thể hóa các cam kết về giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực lâm nghiệp, đặc biệt sau khi Việt Nam công bố mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Một trong những điểm mới đáng chú ý là việc quy định rõ bên cung ứng dịch vụ có thể là chủ rừng nhà nước (như UBND xã, các tổ chức công lập), hoặc tư nhân (cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư, doanh nghiệp). Bên sử dụng dịch vụ là các tổ chức, cá nhân trong hoặc ngoài nước có nhu cầu bù đắp phát thải carbon.
Việc trao đổi, chuyển nhượng kết quả giảm phát thải hoặc tín chỉ carbon rừng được thực hiện thông qua hợp đồng hoặc sàn giao dịch carbon trong nước. Giá trị tín chỉ được tính theo đơn vị 1 tấn CO2 tương đương, và khung giá khởi điểm sẽ do UBND tỉnh ban hành, trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Nếu liên quan tới rừng thuộc nhiều tỉnh, mức giá sẽ lấy theo khung cao nhất. Trong trường hợp chưa có hướng dẫn, các bên sẽ đàm phán và trình Thủ tướng quyết định.
Với rừng thuộc sở hữu toàn dân, UBND tỉnh hoặc Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ đại diện triển khai dự án carbon rừng. Trong khi đó, rừng thuộc quyền sử dụng của cá nhân, tổ chức, cộng đồng thì chủ rừng có thể trực tiếp tham gia hoặc ủy quyền cho đơn vị đủ điều kiện pháp nhân thực hiện dự án. Đặc biệt, các hộ, cá nhân sở hữu rừng trồng liền kề với các dự án của tỉnh có thể tự nguyện tham gia, được xác nhận diện tích và nhận chia sẻ lợi ích từ kết quả giảm phát thải.
Nguồn thu từ việc bán tín chỉ carbon sẽ được chia theo hình thức chi trả trực tiếp hoặc thông qua Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam và các quỹ cấp tỉnh. Với chủ rừng là tổ chức, phần tiền thu được sau khi trừ chi phí sẽ được tính là nguồn thu hợp pháp, sử dụng theo quy định tài chính hiện hành. Với cá nhân, hộ gia đình hoặc cộng đồng, nguồn thu được phân bổ theo diện tích rừng đóng góp và sử dụng theo phương án đã được phê duyệt.
PGS.TS Nguyễn Bá Ngãi, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Chủ rừng Việt Nam đề xuất tách bạch 2 cơ chế cung ứng dịch vụ và thị trường giao dịch để đảm bảo tính minh bạch, phù hợp với định hướng luật pháp hiện hành về bảo vệ môi trường và lâm nghiệp.
Theo ông Ngãi, cơ chế cung ứng dịch vụ nên được tiếp cận như một quan hệ dân sự - hợp đồng, trong đó tín chỉ carbon rừng được trao đổi giữa bên cung ứng (chủ rừng) và bên sử dụng (doanh nghiệp phát thải) thông qua thỏa thuận có sự điều tiết giá của Nhà nước. Cách làm này tương tự như cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng đang triển khai, đảm bảo lợi ích các bên và tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho người dân và cộng đồng địa phương.
Đối với cơ chế thị trường, tín chỉ carbon rừng được đưa lên sàn giao dịch để các doanh nghiệp tự trao đổi, bù trừ phát thải hoặc mua bán theo nhu cầu. Trong trường hợp này, Nhà nước không nên can thiệp vào mức giá, để giá tín chỉ được hình thành theo nguyên tắc thị trường hoặc thông qua đấu giá. Cách tiếp cận này phù hợp với quy định tại Nghị định 06/2022/NĐ-CP và Nghị định 119/2025/NĐ-CP về giảm phát thải khí nhà kính và phát triển thị trường carbon.
TS Tô Xuân Phúc, Tổ chức Forest Trends - Ảnh:VGP/Đỗ Hương
Theo ông Tô Xuân Phúc, Tổ chức Forest Trends, hiện nay, diện tích rừng, đặc biệt là rừng trồng của các hộ dân rất lớn. Đây là những diện tích đất mà Nhà nước giao cho người dân để sản xuất và phát triển rừng lâu dài và các hộ đã tự bỏ vốn đầu tư. Vì vậy, rừng trồng của hộ dân cần được xem là tài sản tư nhân và các quy định, nghị định liên quan nên mở rộng theo hướng cho phép người dân được toàn quyền liên doanh, liên kết và tham gia thị trường carbon.
Còn đối với những diện tích rừng thuộc sở hữu toàn dân hay sở hữu nhà nước, thì sau khi các cơ quan chức năng hoàn tất việc tính toán mức độ đóng góp của Chính phủ Việt Nam trong mục tiêu giảm phát thải, nghị định nên được thiết kế theo hướng mở, để có thể huy động các tổ chức, doanh nghiệp hoặc dự án cùng hợp tác đầu tư, tạo ra tín chỉ carbon và tham gia giao dịch trên thị trường, bao gồm cả thị trường trong nước và quốc tế.
Khi Việt Nam đã hoàn thành đầy đủ các cam kết trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), phần tín chỉ carbon còn lại nên được tự do giao dịch một cách minh bạch, công khai để có thể huy động hiệu quả nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế hiệu quả, phục vụ cho phát triển bền vững, ông Tô Xuân Phúc góp ý
PGS.TS Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm khẳng định, Dự thảo Nghị định được xây dựng với mục tiêu hỗ trợ tối đa cho các chủ rừng, đặc biệt là trong việc đơn giản hóa thủ tục và tạo thuận lợi cho việc tham gia thị trường carbon. Ông nhấn mạnh, khi được ban hành, nghị định sẽ "cởi trói" cho các chủ tín chỉ carbon, cho phép họ chủ động hơn trong việc trao đổi, chuyển nhượng hoặc bù trừ tín chỉ không chỉ trong nước mà cả với đối tác quốc tế.
Theo ông Bảo, một số nội dung đáng chú ý trong dự thảo là quy định về giá bán tín chỉ, có thể theo cơ chế thỏa thuận trực tiếp hoặc tự nguyện như mô hình ERPA hiện nay. Bên cạnh đó, dự thảo cũng hướng tới việc thu hút mạnh mẽ sự tham gia của khối tư nhân và doanh nghiệp - những chủ thể có tiềm lực tài chính và công nghệ - nhằm gia tăng trữ lượng rừng, qua đó đóng góp thiết thực vào mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững và thực hiện cam kết về khí hậu của Việt Nam.
Đỗ Hương
Nguồn: https://baochinhphu.vn/buoc-tien-moi-trong-hoan-thien-the-che-thi-truong-carbon-102250715175115159.htm
Bình luận (0)