
Người xứ này vẫn còn truyền nhau câu ca xưa: "nhất La Qua, nhì Thành Mỹ, ba Chiên Đàn" để nói về quy mô của những ngôi đình có mặt lâu đời nhất ở xứ Quảng. Trải qua biến thiên thời cuộc, chỉ còn đình Chiên Đàn nguyên vẹn cùng niềm tự hào của người bản địa. Đây cũng là ngôi đình cổ nhất của xứ Quảng còn nguyên vẹn.
Trăm năm dưới mái đình làng
Ngày 14/7 âm lịch hằng năm là khoảng thời gian đặc biệt của người dân vùng Hà Đông xưa. Được xem như cái nôi văn hóa của vùng Tam Kỳ cũ, đình cổ Chiên Đàn cùng lễ hội truyền thống hằng năm không chỉ mang ý niệm của nghi thức sinh hoạt truyền thống. Ở đó, tiếng nói của cộng đồng cùng câu chuyện gìn giữ bản sắc truyền thống làng quê Việt được lần giở.
Mùi hương trầm len theo tiếng mõ. Lặng lẽ sau chánh điện, như đau đáu theo cả hành trình 500 năm có lẻ của ngôi đình làng, cụ Nguyễn Đình Khôi - Ban Trị sự đình làng Chiên Đàn nói, từ lễ dâng hương, tế tiền hiền, tưởng vọng người khai khẩn đều là để nhắc nhớ con cháu về gốc gác làng mình, giữ trong lòng mỗi người Việt ngọn lửa mang tên nguồn cội.
Lịch sử đã đặt đình Chiên Đàn vào trung tâm của trục ký ức lịch sử hình thành xứ Quảng. Tư liệu từ Ban Trị sự đình làng Chiên Đàn ghi lại, Chiên Đàn xưa thuộc huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa, có bề dày lịch sử gắn liền với lịch sử phát triển của vùng đất Chiên Đàn. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thành lập Thừa tuyên Quảng Nam, huyện Hà Đông ra đời. Để tưởng nhớ công ơn những vị Tiền nhân, Tiền hiền đã có công khai đất lập làng, trong khoảng từ 1471-1473, nhân dân cùng nhau xây dựng một ngôi đình với tên gọi Chiên Đàn.
Hằng năm người dân làng Chiên Đàn làm lễ cúng đình vào ngày đầu xuân và tổ chức lễ hội linh đình vào ngày rằm tháng 7 âm lịch. Những hoạt động này nhằm vừa báo công, vừa để tri ân, tạ ơn phù trì mưa thuận, gió hòa, làm ăn phát đạt, mọi người được khỏe mạnh, an yên và giáo dục con cháu đạo lý về nguồn cội.
Theo dòng chảy của lịch sử, đình làng Chiên Đàn gắn với xã Chiên Đàn từng in đậm dấu chân của những anh hùng, các vị nho gia khoa bảng, chí sĩ và danh nhân xứ Quảng.
Những cái tên một thời vang bóng ở xứ này trên nhiều lĩnh vực như Kiều Phụng, Đống Công Trường, Nguyễn Dục, Trần Văn Dư, Huỳnh Thúc Kháng, Dương Thưởng, Dương Thạc… với những kỳ tích lẫy lừng được ghi dấu cùng đình Chiên Đàn. Từ việc là điểm tụ hội của dân đinh, ghi dấu những cuộc khởi nghĩa, diễn thuyết, nộp sưu, đình Chiên Đàn cũng là nơi lập Ủy ban hành chính kháng chiến sau Cách mạng tháng Tám...
Sợi dây nối kết cộng đồng
Năm 2002, đình được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia - sự công nhận muộn nhưng còn kịp để tôn vinh một không gian thiêng còn lưu dấu giữa đời. Những cột gỗ mít sẫm bóng, mái ngói âm dương, vì kèo chạm trổ của thợ Văn Hà… vẫn kiêu hãnh trụ qua bão gió. Từ khi xây dựng cho đến nay, đình đã trải qua nhiều lần tu sửa nhưng các yếu tố gốc của ngôi đình vẫn được bảo tồn tính nguyên vẹn của một công trình kiến trúc cổ.

Những vì kèo gỗ được chạm trổ hoa văn tế vi từ phường thợ Văn Hà nức tiếng vẫn còn đó. Di sản chạm trổ của nghề truyền thống Văn Hà hiện hữu ở từng đường nét kiến trúc tuổi đời hơn nửa thế kỷ của đình Chiên Đàn.
Nên những gì còn lại của Chiên Đàn đình cổ, cũng là ký ức có từ mấy trăm năm trước của những người làm nghề mộc Văn Hà. Câu chuyện ông tổ nghề mộc làng Văn Hà xuất thân gốc gác từ vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh đã cắm sào, cất tiếng búa, tiếng bào, tiếng đục… đầu tiên trên mảnh đất này, với từng nét khắc ở trỏng bí, đầu hồi như được kể lại ở những dấu tích của đình Chiên Đàn.
Ông Thái Bình - Bí thư Đảng ủy xã Chiên Đàn nói, năm tháng trôi qua, nhưng các giá trị kiến trúc nghệ thuật, nét đẹp lịch sử, văn hóa truyền thống của lễ hội đình làng Chiên Đàn vẫn luôn được các thế hệ giữ gìn và phát huy. Đây là niềm vinh dự, tự hào không chỉ của người dân Chiên Đàn mà còn là niềm tự hào của mỗi người dân đất Quảng. Bây giờ, đình Chiên Đàn là một thiết chế đặc biệt của địa phương.
Ông Thái Bình nói thêm, sau khi thực hiện chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính, các xã Tam Thái, Tam Đàn và thị trấn Phú Thịnh được nhập thành một và tên mới được đặt là xã Chiên Đàn - một địa danh gắn liền lịch sử. Theo ông, việc chọn tên "Chiên Đàn" nhằm tôn vinh truyền thống hào hùng, kết nối bản sắc văn hóa địa phương và góp phần nuôi dưỡng niềm tự hào dân tộc.
Trong lễ hội vừa rồi, dòng người vẫn nán lại quây quần ở sân đình làng cổ, theo từng nhịp trống, nhịp hô của hội bài chòi, dù nắng đã xuyên qua theo tán lá soi vào mặt người. Lễ chính đã xong nhưng hội làng chưa vãn.
Theo các nhà nghiên cứu, ở Chiên Đàn, mạch lễ được các bô lão trong làng truyền nhau nguyên bản. Còn mạch hội vẫn không rời đời sống dân gian, đó là các trò chơi cộng đồng có hành trình đi cùng đời sống của người xứ Quảng, như bài chòi hay các hình thức biểu diễn võ cổ truyền.
Người làng Chiên Đàn còn tỉ tê gọi lễ hội đình làng mình như một "ngày hội đoàn viên". Ở đó, mỗi năm hội làng, lại có những phần quà, những suất học bổng được sẻ chia để nối dài con đường đến trường của con em địa phương. Đó như một thước đo hiện hữu của giá trị cộng đồng... bắt đầu bằng việc bền bỉ giữ lễ hội làng.
Theo tư liệu từ Phòng Văn hóa - xã hội xã Chiên Đàn, khi vua Lê Thánh Tông dẫn đoàn quân tiến vào chinh chiến, bình phương nam, nhà vua đã sử dụng đình Chiên Đàn để nghỉ ngơi và đưa ra những quyết sách phù hợp để giành thắng lợi.
Đình làng lúc này nằm ở một vị trí cao ráo, có thể bao quát cả một vùng đất rộng lớn.
Cách Chiên Đàn vài cây số là sông Tam Kỳ che chắn. Xung quanh làng Chiên Đàn có nhiều nhánh sông nhỏ bao bọc và hơn hết có rất nhiều đồi cao án ngữ trước sau, rất tốt cho việc bố trí lực lượng để tấn công và phòng thủ.
Nguồn: https://baodanang.vn/ben-bi-giu-le-hoi-dinh-lang-3302797.html
Bình luận (0)