
Một sáng, nơi Bến Cồn có một người đàn ông trung niên dáng vẻ tiều tụy, tay cầm cái bị cói đi tìm thuyền về làng đảo. Ông bắt chuyện với một người phụ nữ đang rửa mớ cá trong cái rổ tre bên mép nước. Bà thoáng ngạc nhiên rồi chỉ tay về hướng cửa biển.
Bây giờ thuyền đánh cá không còn được phép chở người đi làng đảo nữa. Chú phải đến bến tàu phía trên kia…
Thoáng ngập ngừng, rồi người đàn ông lặng lẽ quay gót. Ông ta có vẻ là người xa lạ đến nơi này lần đầu.
Không! Ông không phải là người lạ mà là người đi xa nhiều năm nay trở về.
Hai con tàu sắt to kềnh đen trùi trũi án ngữ trước biển. Tại cầu cảng, mọi người tất bật chuyển hàng hóa lên tàu. Người khách tìm tàu dừng trước tấm bảng thông báo giờ tàu khởi hành, lẩm nhẩm đọc: 14 giờ ngày hôm nay tàu đi đảo Ngừ nhổ neo.
Người khách tìm một quán nước để nghỉ ngơi chờ giờ lên tàu. Ông đã vượt mấy trăm cây số trên một chiếc xe đò già nua xộc xệch gần 2 ngày đường, từ một góc rừng ở Tây Nguyên đến góc biển này, nhưng còn phải lênh đênh mấy mươi hải lý nữa mới trở về nơi ông đã xa biền biệt trong một thời gian dài. Trong mấy năm xa cách đó, làng đảo và những người thân yêu của ông nhiều khi biến mất tăm không mảy may dấu vết trong trí nhớ của ông; có khi chợt ẩn, chợt hiện rất mù mờ hay chỉ lóe sáng phút chốc rồi chìm trong màn sương khói. Ông nhớ nhớ, quên quên. Ông thường lơ ngơ nhìn xa xăm như mãi chăm chú lắng nghe một tiếng gọi mơ hồ văng vẳng từ cõi nào vọng về, không màng đến những gì đang xảy ra quanh mình dù ông vẫn giao tiếp bình thường với mọi người.
Ông cũng không phải là dân làng của góc rừng Tây Nguyên đó. Ông đột ngột xuất hiện và không biết mình là ai, tại sao mình có mặt ở một nơi chốn xa lạ, không một người thân thích; cũng như không một ai trong cái làng núi rừng này biết mảy may điều gì về ông.
Dân làng thương ông là một người bệnh mất trí nhớ lưu lạc nhưng cũng có người gọi ông là lão tâm thần, lão thần kinh hay có đứa trẻ còn gọi ông là lão khùng điên. Ai nói thế nào, ông cũng mặc kệ, chỉ cười ngu ngơ. Mọi người thương hại cho ông miếng cơm, cái bánh. Lâu dần, thấy ông hiền lành và vô hại, họ xem ông như một người con bất hạnh của làng. Ông được một cặp vợ chồng già cho ở trong một chòi rẫy để giúp họ đuổi chim chóc, xua con sóc con chuột cắn phá hoa màu. Bù lại, ông không phải lo cái ăn cái mặc.
Ông siêng năng trồng tỉa. Qua mấy mùa rẫy, bắp - bí - đậu - khoai cho ông chút đỉnh tiền đủ chi tiêu cho cuộc sống đạm bạc. Ông thích thú mang sản phẩm trồng tỉa ra bán ở chợ chồm hổm đầu làng để được gặp gỡ nhiều người, được trò chuyện dù là những câu bâng quơ, để được gợi nhớ trong trí óc những hình ảnh chắp vá, những đoạn ký ức rời rạc. Ông sống lặng lẽ, cô độc tìm lại chính mình của ngày tháng trước khi đến góc rừng này.
Cho đến một ngày…
Trời đang nắng ráo đột nhiên tối sầm. Mây đen nghịt ùn ùn kéo tới phủ kín bầu trời. Rồi gió như được gom lại từ muôn nơi chà đi xát lại rừng cây, nương rẫy, làm run rẩy những căn nhà sàn… Mưa đổ những cột nước hung bạo xuống vạn vật… Và những con suối hung hãn cuồn cuộn tràn bờ cuốn trôi đất đá, cây cối…
Lúc này, ông đang dìu con bò già của cặp vợ chồng ân nhân từ ven suối về chòi nhưng không kịp nữa; dòng suối sôi sục cuốn phăng người và vật vào vòng xoáy.
Tan cơn thịnh nộ của đất trời, dân làng tìm thấy ông nằm ôm con bò già bên một thân cổ thụ trốc gốc; thân cổ thụ vắt ngang dòng chảy của con suối ngoài rìa làng đã giữ 2 thân xác bất động lại, không bị cuốn về phía vực sâu. Nhưng ông còn thở thoi thóp dù mê man…
Dân làng tận tình chăm sóc, cứu chữa cho ông. Một đêm, trong căn chòi rẫy, trên tấm vạt tre lót cái mền mỏng, ông nghe tiếng rù rì trong tai cứ lặp đi lặp lại đều đặn không dứt. Mấy đêm liền như thế, ông yên lặng lắng nghe không biết vì sao âm thanh đó vang mãi trong tai mình vào mỗi khuya thanh vắng, khi ngoài màn đêm không còn tiếng đập cánh của mấy con chim ăn đêm. Rồi vào một sớm tinh mơ khi ông nửa tỉnh nửa thức, trước mắt ông bỗng hiện ra một cánh buồm vải nâu của con thuyền nhỏ đang bấm mũi vào bờ cát, với nhiều bóng người vây quanh như đang chờ đợi. Tiếng rù rì trong tai ông chợt nghe rõ ràng hơn và ông nhận ra là tiếng sóng biển vỗ nhẹ nhàng…
Sau trận thập tử nhất sinh đó, trí nhớ ông dần hồi phục dù chậm chạp và dù vài đoạn ký ức còn mờ nhạt như cuộn phim cũ chiếu lại không rõ nét, nhưng kết nối thì ông cũng nhớ được làng quê và thân phận mình. Vậy mà phải nửa năm sau, cuộn phim dĩ vãng cuộc đời ông mới được tái hiện hoàn toàn trong trí nhớ từng mù sương của ông.
Đang hành nghề câu cá mập, ông cùng mấy bạn thuyền bị bắt và bị nhốt dưới hầm tàu hải quân, rồi được đưa vào đất liền. Sau đó, người ta làm hồ sơ rồi tống tất cả vào quân trường. Sau mấy tháng học tập, ông bị đưa lên vùng chiến sự ác liệt ở Tây Nguyên vào quãng thời gian gần chấm dứt cuộc chiến tranh. Và người lính mới tò te trong một cuộc giao tranh đầu tiên của đời lính đã bị sức ép của một quả đạn pháo vùi lấp, dù không mang thương tích nhưng ông bị chứng mất trí nhớ tạm thời. Một ngày, ông rời bỏ nơi điều trị, đi lang thang rồi lạc đến góc rừng có những người dân tốt bụng cưu mang.
Trí nhớ hồi phục dần, ông biết là mình từng có một gia đình nên ngày nọ, ông xin phép cặp vợ chồng già và dân làng lên đường tìm về với những người thân yêu ở quê nhà là một làng chài nằm giữa biển khơi. Những người cưu mang ông đã làm bữa cơm thân mật tiễn đưa ông về xuôi. Trước khi chiếc xe thồ chở ông đến bến xe liên tỉnh, người y tá duy nhất của làng suốt thời gian dài theo dõi bệnh tình của ông, an ủi:
Anh đã bị một cơn chấn động dữ dội làm tạm thời mất trí nhớ, nhưng não bộ không bị tổn thương nên sau một thời gian trí nhớ hồi phục dần. Chuyện này không lạ vì đã từng xảy ra. Anh an tâm… Ngày nào bình phục hoàn toàn, anh nhớ lên thăm bà con!
*
Từ xa, thằng Ô đã thấy nhiều người xúm xít bên mép nước vung tay chỉ trỏ. Thằng Mực nhảy cỡn, la lối gì đó mà Ô không nghe rõ. Thuyền câu chưa bấm mũi vào dải cát, Mực đã leo lên thuyền hét lớn vào tai bạn.
Ba mày về! Ba mày về rồi!
Mọi người đón thuyền về râm ran bàn chuyện, chung vui mừng với đứa con của người ba lưu lạc bao năm trở về.
Thằng Ô bàng hoàng vì ba nó biệt tăm biệt tích bao năm, nay đột ngột xuất hiện trong cuộc đời nó, ngay trên làng đảo quê hương. Nó lúng túng không biết phải làm gì, theo thói quen, nó mở khoang thuyền lấy mấy rổ mực tươi rói mà bạn thuyền câu được đêm qua mang lên bờ, rồi dùng gàu múc nước biển chà rửa sạp thuyền như mọi khi mặc cho thằng Mực hối thúc.
Về nhà đi! Về gặp ba mày rồi chiều hãy rửa thuyền…
Thằng Mực nắm tay bạn kéo chạy. Con đường cát quanh co từ bãi biển đến nhà thằng Ô phải qua mấy dốc cao, thế mà thằng Mực kéo tay bạn chạy như bay, chẳng lâu đã thấy 2 gốc bạch đàn làm cổng vào nhà. 2 đứa dừng chân, mỗi đứa ôm một gốc bạch đàn… để thở. Ai đó đã đặt một cái bàn và nhiều cái ghế trên khoảnh sân trước nhà cho người đến thăm viếng có chỗ ngồi trò chuyện.
Thằng Mực đẩy lưng bạn, đường từ cổng vào nhà quen thuộc chỉ vài mươi bước chân mà sao thằng Ô ngập ngừng như bước trên con đường lạ lẫm. Nhiều người ngồi trên bậc cửa, ngoài hiên chỉ trỏ càng làm nó bối rối.
Lão Cụt ngoắc nó, gọi rối rít:
Ô ơi! Vào nhà đi con! Ba con đây này!
Thằng Ô đặt chân lên bậc thềm, thì một người đàn ông trung niên từ trong nhà nhào ra, ôm chầm 2 vai nó, lắc lắc.
Con tôi! Con tôi!
Rồi ông khóc nức nở.
Thằng Ô đứng yên. Nó chưa nhìn rõ gương mặt ba nó. Nó đứng tới ngực ông, mặt nó áp vào bộ ngực gầy yếu của ông và nghe rõ nhịp đập dồn dập của trái tim người ba tìm thấy con mình sau nhiều năm xa cách. Nó ngước nhìn ông, xem gương mặt ông có giống ít nhiều với gương mặt mà nó từng tưởng tượng. Ba nó có gương mặt xương, má hóp, mũi cao và cặp lông mày rậm. Còn nó có gương mặt tròn, má đầy thịt, cặp lông mày thưa thớt, tóc xoăn thành lọn trước trán. Nó đâu có nét nào giống ba nó? Ờ! Có lẽ nó giống ông ở chiếc mũi cao, đầu mũi hơi nhọn chăng?
Sao ba nó không trở về nhà lúc bà ngoại còn sống? Thằng Ô cứ thầm hỏi, để bà ngoại an tâm nhắm mắt là nó còn có ba nuôi nấng, dạy dỗ. “Ngoại không còn, cháu ở với ai!”. Tiếng bà thở dài như làn gió nhẹ gợn xao xuyến bên tai nó còn đọng mãi trong căn nhà nhỏ, thấp và tối của 2 bà cháu. Nó định bụng sẽ hỏi ba nó cho ra lẽ, vì sao ông không trở về nhà sớm hơn, hỏi cho cả bà ngoại và má nó nữa. Nó khóc ấm ức vì biết rằng, bà ngoại nặng lòng đến lúc lìa đời vì nỗi ưu tư, lo lắng cho thân phận mồ côi của nó.
Căn nhà ấm cúng hơn vì nhiều người đến thăm ba con thằng Ô thắp nhang trên bàn thờ bà ngoại. Dì Tư hàng xóm chu đáo pha trà mời mọi người. Thằng Ô lặng lẽ ngồi ở hiên nhà, nó chăm chú nhìn ba nó tiếp chuyện mọi người. Nó thấy ông có dáng vẻ hiền lành, cười nhiều hơn nói; một tình cảm thân thương tràn ngập tâm hồn nó dành cho người đàn ông vài tiếng đồng hồ trước còn xa lạ.
Mọi người lần lượt ra về, lão Cụt là người ra về cuối cùng. Lão thân tình ôm vai ba thằng Ô, lặp lại lời mời mỗi sáng rảnh rang cứ đến nhà lão uống cà phê, uống trà trò chuyện. Thằng Ô thấy ba nó có vẻ quý lão Cụt lắm, làm nó nhớ tới má nó và tình cảm của lão Cụt dành cho bà thời… chưa có nó. Nó định bụng sẽ hỏi ba nó câu chuyện tế nhị đã xảy ra giữa 2 người đàn ông.
Dì Tư dọn mâm cơm chung đầu tiên cho cha con thằng Ô. Ba nó ăn ngon lành mấy con cá tươi nấu canh chua, mấy con mực hấp. Bao năm sống ở miệt rừng núi, ông không hề được ăn những con cá tươi còn cong mình luyến tiếc biển khơi hay những con mực tươi còn ngời sáng. Ông nhớ tới cặp vợ chồng già có gương mặt khắc khổ đã cưu mang ông, chia sẻ cho ông những bữa ăn nhiều măng tre, rau rừng; thầm hứa sẽ có ngày mời họ về thăm làng đảo, đãi họ các món đặc sản của đại dương. Thằng Ô nhìn ông, ăn cầm chừng vì muốn kéo dài phút giây hạnh phúc được xới chén cơm dâng tận tay ba nó; xưa nay nó hiếm khi ngồi vào bàn ăn mà chỉ trộn tất cả thức ăn vào tô cơm bự chảng rồi nuốt vội cho xong bữa, hay nhai trệu trạo bữa cơm trên con thuyền chông chênh vì sóng gió. Dì Tư hạnh phúc nhìn 2 ba con người hàng xóm, nói nhỏ:
Sáng mai, tôi sẽ làm mâm cơm để 2 ba con cúng ông bà mừng ngày sum họp.
Nguồn: https://baolamdong.vn/truyen-ngan-sum-hop-386205.html
Bình luận (0)