Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Tôn vinh liệt sĩ - đề tài lớn của thi ca cách mạng

Làm cách mạng giành độc lập, tự do cho đất nước, cho nhân dân là một hành trình vô cùng gian khổ, nhiều mất mát, hy sinh. Trong các cuộc kháng chiến trường kỳ, máu xương liệt sĩ đã đổ xuống không thể nào kể xiết.

Báo Đắk LắkBáo Đắk Lắk29/07/2025

Ngay từ buổi đầu làm cách mạng, nhà thơ lớn Tố Hữu đã xác định bằng tác phẩm của mình như một sự xác định sắt son và cũng là lời tâm nguyện chân thành: “Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu/ Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Là gươm kề tận cổ, súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa” (Trăng trối).

Nhắc đến Vĩnh Mai, người đọc nhớ ngay đến bài thơ “Khóc Hoài” nổi tiếng. Khi nói về “Khóc Hoài”, nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nói rằng bài thơ gợi đến chất lấm láp, khỏe khoắn của hội vật làng Sình, cứ “mi mi tau tau” tỉnh bơ mà tình cảm như xoáy vào gan ruột. Cũng xin nói thêm rằng cho đến nay khi thời gian sáng tác bài thơ đã qua hơn nửa thế kỷ mà nhiều người cao tuổi ở khu vực Bình Trị Thiên vẫn nhớ đến tiếng thơ khóc bạn, có người còn đọc thuộc. Đó là hạnh phúc đối với một người cầm bút: “Tau với mi hẹn nhau từ khu bộ/ Lúc trở về cố sáng tác văn chương/ Đến tỉnh nhà lại mỗi đứa mỗi đường/ Lo công việc không một ngày được nghỉ/ Tau ao ước giữa văn nhân nghệ sĩ/ Gặp lại mi để bàn chuyện lâu dài/ Nhưng một hôm như sét đánh ngang tai/ Tau sửng sốt nghe tin mi đã chết/ Tau buột miệng kêu lên “thế là hết”/ Tau mất thêm một thằng bạn văn chương.../...Mi lại chết! Trời ơi là uất ức/ Mi táo bạo về ngay chi Phú Lộc/ Để cho Tây phục kích bắn mi đi!/ Tau biết rồi tính mi vốn khinh khi/ Coi mạng sống như đồ chơi con trẻ”.

Với những nét tạo hình chắc khỏe, thô mộc, sần sùi, bài thơ đã khắc họa được chân dung một trí thức hiến trọn đời mình cho độc lập tự do và hy sinh lẫm liệt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Một trí thức hòa mình vào cuộc chiến tranh nhân dân trường kỳ với dáng vẻ ngang tàng coi thường nguy hiểm. Đó là tượng đài hiếm hoi bằng thơ về người trí thức xả thân vì nghĩa lớn trong văn học Việt Nam hiện đại.

Trong kháng chiến chống Mỹ cũng xuất hiện nhiều bài thơ hay tôn vinh liệt sĩ như “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ hay “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân…

Nhắc đến Đại tá, nhà thơ quân đội Nguyễn Hữu Quý, người ta thường nhớ đến bài thơ “Khát vọng Trường Sơn”. Bài thơ nổi tiếng này có thể coi là đỉnh cao trong sáng tác của anh, đã từng đoạt giải B (không có giải A) của cuộc thi thơ do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức. Nhưng Nguyễn Hữu Quý còn có nhiều bài thơ khác viết về đề tài chiến tranh đáng nhớ. Đơn cử như bài “Viết từ Thành cổ” lấy cảm hứng từ đất thiêng Quảng Trị, nhà thơ viết: “Đêm trộn ngày, ngày trộn vào đêm, máu hòa máu trộn vào từng nắm đất. Những dòng máu chảy qua vỡ nát - cỏ nhú mùa xuân như ngực dậy thì?

Cỏ là giấc mơ đã bị lấp vùi, là câu hát trái tim chưa hát, là bâng khuâng anh chưa kịp gửi, những khát khao chẳng được nẩy mầm. Cỏ là em nghìn đêm anh chưa gặp, muốn hôn lên mái tóc thơm nồng thèm chạm vào đáy thắt lưng ong những mềm mại nõn nà anh mơ mộng...”.

Ở đây, trong bài thơ này, “cỏ non Thành cổ” theo cách nói của nhạc sĩ Tân Huyền đã hiện thân và hóa thân thành “anh” và “em”, thành đối thoại khắc khoải của tình yêu đôi lứa. Và giấc mơ lứa đôi lẽ ra hoàn toàn có thể thành sự thật nếu như không có chiến tranh. Cái giả định nghiệt ngã không một người nào có lương tri mong muốn ấy đã xảy ra. Tất cả đã biến đổi không ngờ: “Cỏ Thành cổ, ơi cỏ non Thành cổ - nhịp tim xanh dưới trăng khuyết mong manh làm dịu lại bao vết thương nhức nhối. Ngọn cỏ cuối cùng trút cho anh hơi thở chuyển hồn quê vào khúc lữ trình đêm.

Máu khai sinh một dòng sông dưới cỏ tiếng khóc đầu đời vọng mọi làng quê. Đêm thao thức trắng tận cùng thao thức, đêm lẻ loi đen chạm đáy lẻ loi đêm chảy xiết đôi bờ sụt lở, khi vỡ òa giọt máu hồi hương...”.

Đoạn thơ và cả bài thơ như một khúc tự tình của cỏ, mà cỏ ở đây là cỏ Thành cổ, cỏ thiêng của cõi thiêng, gợi niềm xót xa về những hy sinh, mất mát không thể nào nói hết của những tình yêu mãi mãi dang dở bởi chiến tranh vệ quốc. Người chết thì không thể trở về, chỉ có thể mượn cỏ gửi hồn về theo ngọn đèn chờ đợi như “giọt máu hồi hương”.

Niềm cỏ rưng rưng dưới chân Thành cổ Quảng Trị như một tưởng niệm thân mềm về những anh linh đã ngã xuống nước non đất Việt, dằng dặc bao năm trong mỗi bước chân người: “Dòng sông đỏ chảy về nguồn mẹ, soi hoàng hôn điệp điệp bông lau. Trăng câu liêm đưa nhịp võng kéo cà, hoa cỏ tím bập bênh tiếng trẻ. Tiếng trẻ khóc, trời ơi tiếng trẻ? Xin một lần được khóc với o… oa…

Trăng quên khuyết. Cỏ quên mình cỏ đắng. Nối đôi miền sâu thẳm lại bên nhau...”

Những nghĩa sĩ vị quốc vong thân mãi mãi được lớp lớp thế hệ tri ân sẽ luôn là đề tài lớn cho văn học nghệ thuật cách mạng Việt Nam, trong đó có thi ca sẽ càng tỏa sáng đạo lý cao đẹp của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”.


Nguồn: https://baodaklak.vn/van-hoa-du-lich-van-hoc-nghe-thuat/202507/ton-vinh-liet-si-de-tai-lon-cua-thi-ca-cach-mang-7930c25/


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Đảo ở miền Bắc như 'hòn ngọc thô', hải sản giá rẻ, cách đất liền 10 phút đi tàu
Đội hình mũi tên 5 tiêm kích SU-30MK2 đầy uy lực chuẩn bị cho đại lễ A80
Tên lửa S-300PMU1 trực chiến bảo vệ bầu trời Hà Nội
Mùa sen nở rộ thu hút du khách đến với vùng non nước hùng vĩ Ninh Bình

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm