Chính sách đối ngoại và nghiên cứu chính sách đối ngoại
Chính sách đối ngoại theo cách hiểu thông dụng nhất là tập hợp các mục tiêu và biện pháp mà một quốc gia triển khai nhằm bảo đảm và phát huy tối đa lợi ích quốc gia - dân tộc. Chính sách đối ngoại bao gồm các mục tiêu và công cụ do Nhà nước xác định và sử dụng. Ở góc độ khác, chính sách đối ngoại là một bộ phận của chính sách công, do đó, chủ thể thực thi chính sách đối ngoại là Nhà nước. Tuy nhiên, trước mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa đối nội và đối ngoại, giữa các vấn đề của quốc gia và quốc tế, cùng sự xuất hiện ngày càng nhiều vấn đề toàn cầu, các chủ thể tham gia và nội dung hoạt động đối ngoại ngày càng đa dạng, thể hiện rõ trong quá trình hoạch định, triển khai chính sách đối ngoại hiện nay.
Một cách hiểu khác cho rằng, chính sách đối ngoại là một lĩnh vực mang tính khoa học, bởi được hoạch định và triển khai trên cơ sở các kết quả nghiên cứu cùng với dữ liệu được sắp xếp một cách hệ thống. Trong quy trình này, các nghiên cứu khoa học đóng vai trò cung cấp cứ liệu, làm cơ sở tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách. Chẳng hạn, trong quy trình hoạch định chính sách hiện đại, dữ liệu đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Tại Bộ Ngoại giao của nhiều nước, người ta gọi đây là cách tiếp cận “hoạch định chính sách dựa trên dữ liệu” (data driven policy), nghĩa là lấy dữ liệu khoa học khách quan làm căn cứ, thay vì dựa vào cảm quan hay cảm tính của người hoạch định chính sách. Các nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao độ tin cậy và giúp giảm thiểu sai số trong quá trình xây dựng chính sách. Ví dụ, lập trường của một quốc gia về biến đổi khí hậu cần dựa trên thông số và kết quả nghiên cứu khoa học đáng tin cậy. Liên quan vấn đề này, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) đã tích cực kêu gọi và tham gia nhiều sáng kiến nhằm thúc đẩy hành động khí hậu dựa trên dữ liệu, tiêu biểu như chiến dịch #Data4BetterClimateAction. Chiến dịch nhằm thúc đẩy và nâng cao nhận thức về giá trị của tính minh bạch khí hậu trong việc giải quyết các ưu tiên phát triển quốc gia, đồng thời thực hiện các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu(1). Qua đó có thể thấy, hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều công nhận vai trò quan trọng của dữ liệu và các phân tích khoa học khách quan trong việc hoạch định và thực thi chính sách một cách hiệu quả, minh bạch. Điều này cũng lý giải vì sao các cơ quan nghiên cứu và tư vấn chính sách (think-tanks) ngày càng đóng vai trò nổi bật trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách tại nhiều quốc gia.
Chính sách đối ngoại cũng là một nghệ thuật, bởi xét cho cùng, đó là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, như lợi ích quốc gia - dân tộc, văn hóa, lịch sử, hệ thống chính trị và năng lực của người ra quyết định. Trong đó, yếu tố văn hóa chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng, tác động sâu sắc đến việc hình thành mục tiêu, nội dung, tư tưởng, quá trình hoạch định và biện pháp thực thi chính sách đối ngoại của một quốc gia(2). Trong nhiều trường hợp, đối với cùng một vấn đề, giải pháp chính sách giữa các quốc gia không hoàn toàn giống nhau, do sự khác biệt về văn hóa chiến lược và truyền thống chính sách đặc thù của mỗi nước. Tính đặc thù trong chính sách đối ngoại chỉ có thể được lý giải thấu đáo thông qua nghiên cứu kết hợp giữa định lượng và định tính; trong nhiều trường hợp, không thể hoàn toàn khách quan hóa hay phổ quát hóa.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) đã đề ra yêu cầu phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; huy động hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển; đồng thời, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước. Tại Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Đối ngoại và ngoại giao Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” (tháng 3-2025), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã dẫn lại ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về yêu cầu phải đánh giá một cách khách quan, khoa học và chuẩn xác nhất những thuận lợi, khó khăn của đất nước khi bước vào kỷ nguyên mới. Từ đó, xác định đúng vị thế của Việt Nam và tìm ra các giải pháp phù hợp để đưa đất nước tiến bước vững chắc, xác định rõ đối ngoại là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”. Công tác đối ngoại cần được triển khai một cách đồng bộ, chặt chẽ và hiệu quả trên cả ba trụ cột: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, nhằm huy động sự tham gia của toàn hệ thống chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia trong ứng phó với các thách thức và tận dụng cơ hội trong quá trình hội nhập quốc tế. Nói cách khác, chính sách đối ngoại cần được hiểu là tập hợp các mục tiêu và giải pháp có tính hệ thống, liên ngành, liên lĩnh vực, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước, nhằm bảo đảm và thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc trên trường quốc tế. Tương tự lĩnh vực quốc phòng - an ninh, chính sách đối ngoại của Việt Nam phải bảo đảm tính đồng bộ, toàn diện và là sự nghiệp của toàn dân, nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị.
Nghiên cứu chính sách đối ngoại có mối liên hệ chặt chẽ với nghiên cứu quan hệ quốc tế, song cũng tồn tại những điểm khác biệt cần được làm rõ. Thứ nhất, nghiên cứu chính sách đối ngoại có xu hướng tập trung vào cấp độ đơn vị - cụ thể là các quốc gia - và nhấn mạnh vai trò của các cá nhân lãnh đạo, bộ máy, cơ quan và người hoạch định chính sách. Trong khi đó, nghiên cứu quan hệ quốc tế thiên về phân tích các chủ thể và nhân tố ở cấp độ hệ thống, cấu trúc và trật tự quốc tế, chẳng hạn như các nghiên cứu về cục diện toàn cầu, tương quan so sánh lực lượng hay sự vận hành của hệ thống quốc tế. Thứ hai, chính sách đối ngoại của một quốc gia thường được xem như phản ứng của quốc gia đó trước những áp lực, vấn đề hoặc cơ hội phát sinh từ môi trường quốc tế. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng, cần phân biệt rõ giữa nghiên cứu chính sách đối ngoại với nghiên cứu quan hệ quốc tế, bởi đây là hai lĩnh vực học thuật độc lập, mặc dù đều thuộc chuyên ngành khoa học chính trị.
Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, việc tách bạch này chỉ mang tính tương đối, bởi các yếu tố thuộc hệ thống cũng đồng thời là đầu vào quan trọng trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại. Ví dụ, chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia Đông Nam Á khó có thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực hiện nay - một trong những yếu tố bên ngoài quan trọng hàng đầu tác động đến lựa chọn chính sách của các nước. Ở chiều ngược lại, quyết định chính sách của các nước, nhất là các nước lớn, cũng có khả năng định hình hoặc làm thay đổi cấu trúc hệ thống quốc tế. Thực tế cho thấy, không chỉ các nước lớn mà cả những nước vừa và nhỏ cũng góp phần đáng kể vào việc định hình cục diện khu vực và toàn cầu. Một nghiên cứu chỉ ra rằng, trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, phần lớn sáng kiến hợp tác đa phương trong phòng, chống đại dịch đều do các nước vừa và nhỏ đề xuất(3).
Các lý thuyết về quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại có sự giao thoa với nhau, thể hiện qua việc chia sẻ nhiều mối quan tâm và phạm vi nghiên cứu, khi đều tiếp cận các vấn đề cốt lõi, như lợi ích quốc gia - dân tộc, tương quan so sánh lực lượng, bối cảnh quốc tế, cũng như công cụ thực thi chính sách, từ chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh đến văn hóa và khoa học - công nghệ. Những chủ đề như an ninh con người, biến đổi khí hậu hay an ninh mạng ngày càng trở thành điểm hội tụ trong nghiên cứu cả ở cấp độ chính sách đối ngoại lẫn lý thuyết quan hệ quốc tế, cho thấy sự đan xen và bổ trợ lẫn nhau giữa hai lĩnh vực. Theo đó, việc tiếp cận liên ngành không chỉ giúp làm sâu sắc thêm hiểu biết lý thuyết, mà còn nâng cao khả năng lý giải và hoạch định chính sách trong bối cảnh toàn cầu ngày càng phức tạp.
Nghiên cứu chính sách đối ngoại ở Việt Nam
Tại Việt Nam, nghiên cứu chính sách đối ngoại ngày càng nhận được sự quan tâm, thúc đẩy. Phát biểu trong buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Ngoại giao nhân dịp kỷ niệm 79 năm thành lập ngành ngoại giao (ngày 29-8-2024), Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Ngoại giao phải vươn mình lên tầm cao mới, chủ động, kịp thời, tiên phong phát hiện cơ hội, thách thức, tăng cường đóng góp tích cực trong thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời khẳng định, đất nước ta đang đứng trước một khởi điểm lịch sử mới, đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với ngành ngoại giao trong việc nâng cao năng lực nghiên cứu và dự báo, nhằm phục vụ hiệu quả công tác hoạch định chính sách đối ngoại(4). Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ”(5). Qua đó, có thể thấy, công tác nghiên cứu và tham mưu trong hoạch định cũng như triển khai chính sách đối ngoại đang được Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng, nhất là trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực ngày càng phức tạp, biến động. Hiện nay, nhiều cơ quan có vai trò quan trọng trong lĩnh vực này, tiêu biểu như Hội đồng Lý luận Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Tạp chí Cộng sản, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam các đơn vị nghiên cứu thuộc Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an cùng với nhiều trường đại học, viện nghiên cứu khác trong và ngoài hệ thống chính trị. Sự tham gia đa dạng này không chỉ góp phần làm sâu sắc nền tảng lý luận, mà còn nâng cao chất lượng tham mưu chiến lược trong hoạch định chính sách đối ngoại phù hợp với yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước.
Trong những năm qua, nghiên cứu chính sách đối ngoại tại Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Muốn thành công thì phải biết trước mọi việc”, khẳng định vai trò thiết yếu của công tác dự báo và nghiên cứu chiến lược. Trên thực tế, hoạt động nghiên cứu và tham mưu đã hỗ trợ đắc lực cho mặt trận đấu tranh chính trị trong từng giai đoạn lịch sử, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước. Góp phần vào chiến thắng lịch sử ngày 30-4-1975, ngành ngoại giao đã kịp thời nhận định đúng cục diện quốc tế, xác định rõ đối tác và đối tượng, từ đó hỗ trợ Trung ương Đảng đưa ra những quyết sách kịp thời, phù hợp. Trong giai đoạn “vừa đánh, vừa đàm”, ngoại giao không chỉ song hành với tiến công quân sự, mà còn đẩy mạnh tấn công chính trị, dư luận buộc Mỹ phải ngừng tấn công bắn phá miền Bắc, chấp nhận chuyển hướng chiến lược và ngồi vào đàm phán với Việt Nam(6).
Những thành tựu đối ngoại của Việt Nam đạt được trong thời gian qua có sự đóng góp quan trọng từ công tác nghiên cứu và tham mưu chính sách. Nghiên cứu có chất lượng là nền tảng để xây dựng những quyết sách hiệu quả, phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế. Nhiều cơ quan nghiên cứu chiến lược của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận. Theo bảng xếp hạng Global Go To Think Tank năm 2020 do Đại học Pennsylvania (Mỹ) công bố, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới được xếp hạng 23 và Học viện Ngoại giao xếp thứ 36 trong nhóm các tổ chức nghiên cứu, tư vấn chính sách thuộc chính phủ toàn cầu(7). Đáng chú ý, đội ngũ nghiên cứu chính sách đối ngoại ở Việt Nam không chỉ phát hành nhiều ấn phẩm trong nước, mà còn đẩy mạnh công bố quốc tế, ngày càng hiện diện trên các tạp chí uy tín thuộc hệ thống ISI và Scopus. Điều này cho thấy sự hội nhập ngày càng sâu rộng của giới nghiên cứu Việt Nam vào cộng đồng học thuật toàn cầu, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại trong bối cảnh mới.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác nghiên cứu ở Việt Nam vẫn còn không ít hạn chế và thách thức. Trước hết, việc đầu tư nguồn lực cho nghiên cứu chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn, còn dàn trải, thiếu trọng tâm và chưa hình thành được những mũi nhọn chiến lược. Cơ sở vật chất và hạ tầng phục vụ nghiên cứu nhìn chung vẫn ở mức trung bình, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong bối cảnh cạnh tranh tri thức toàn cầu. Năng suất và chất lượng công bố quốc tế của đội ngũ nghiên cứu còn thấp so với mặt bằng khu vực và thế giới. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ đầu ngành có năng lực chủ trì các nhiệm vụ nghiên cứu liên ngành, quy mô lớn, mang tầm quốc tế vẫn còn thiếu hụt(8), ảnh hưởng đến khả năng dẫn dắt và tạo đột phá trong nghiên cứu chính sách đối ngoại, cũng như trong khoa học - xã hội nói chung. Năng lực nghiên cứu, tham mưu chiến lược của cán bộ Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa có nhiều sản phẩm thông tin đối ngoại hấp dẫn, cũng như chưa khai thác hiệu quả các phương tiện truyền thông mới. Công tác nghiên cứu, phân tích tình hình và dự báo chiến lược của Việt Nam hiện nay cũng đối mặt với nhiều thách thức, phần lớn bắt nguồn từ bối cảnh khu vực và thế giới biến động nhanh chóng, khó lường. Những diễn biến phức tạp, như cạnh tranh địa - chính trị giữa các nước lớn, sự dịch chuyển cán cân quyền lực, cùng với sự nổi lên ngày càng rõ nét của các thách thức an ninh phi truyền thống, từ biến đổi khí hậu, dịch bệnh, đến an ninh mạng và khủng hoảng chuỗi cung ứng, đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với năng lực phân tích, dự báo và xây dựng kịch bản chính sách.
Nhiều quốc gia trên thế giới đều dành nguồn lực thích đáng cho công tác nghiên cứu chiến lược, đặc biệt trong lĩnh vực đối ngoại. Chẳng hạn, Viện Nghiên cứu Chiến lược thuộc Bộ Ngoại giao Trung Quốc sở hữu tới 160.000 đầu sách phục vụ nghiên cứu. Về ngân sách, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc (CASS) cho thấy quy mô đầu tư vượt trội. Chỉ riêng các dự án nghiên cứu liên quan đến Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) trong giai đoạn 2013 - 2021, CASS đã quản lý nguồn ngân sách lên tới 260 triệu USD. Về nhân lực, CASS có khoảng 4.200 người, trong đó 3.200 là cán bộ nghiên cứu chuyên nghiệp(9). Ở cấp độ khu vực, Singapore dành ưu tiên rõ nét cho lĩnh vực này. Năm 2021, nước này quyết định tăng ngân sách cho nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn lên 340 triệu USD cho giai đoạn 2021 - 2025(10).
Nhiều nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay vẫn chưa đạt được chất lượng tối ưu, đặc biệt về phương pháp luận và cơ sở tư liệu. Không ít công trình chưa thể hiện được đột phá về tư duy hay khả năng ứng dụng vào thực tiễn. Trong khi đó, nghị trình đối ngoại ngày càng mở rộng, mang tính liên ngành và đa ngành sâu sắc hơn, đòi hỏi cách tiếp cận nghiên cứu linh hoạt, tích hợp và cập nhật. Bối cảnh quốc tế đang diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường, đặt ra nhiều thách thức mới đối với công tác nghiên cứu, dự báo và tư vấn chính sách. Nếu như trước đây, các nghiên cứu chính sách đối ngoại chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực truyền thống, như chính trị - an ninh, kinh tế, thì hiện nay phạm vi đã được mở rộng đáng kể. Tiến trình toàn cầu hóa, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự gia tăng của các thách thức an ninh phi truyền thống đang đòi hỏi giới nghiên cứu phải điều chỉnh cách tiếp cận và nội dung nghiên cứu để theo kịp thực tiễn.
Với những điều kiện chủ quan và khách quan đã phân tích, có thể khẳng định nhu cầu nâng cao chất lượng nghiên cứu về chính sách đối ngoại là yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam hiện nay. Đây cũng là xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới, nơi công tác nghiên cứu được xem là bộ phận hữu cơ trong toàn bộ quá trình hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại. Để đáp ứng yêu cầu đó, cần tạo điều kiện để đội ngũ các nhà nghiên cứu, nhà khoa học và chuyên gia trong lĩnh vực quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại phát huy vai trò, đóng góp nhiều hơn vào quá trình xây dựng chính sách. Trong bất kỳ lĩnh vực nào, đặc biệt là đối ngoại - một lĩnh vực vừa phức tạp, vừa gắn liền với lợi ích cốt lõi của quốc gia - vai trò của đội ngũ chuyên gia có năng lực là không thể thay thế. Việc lắng nghe và khai thác hiệu quả tri thức từ giới nghiên cứu sẽ giúp các quyết sách đối ngoại trở nên chủ động, linh hoạt và sát thực hơn với yêu cầu của tình hình. Các cơ quan nghiên cứu và tham mưu trong lĩnh vực đối ngoại cũng cần chuyển từ tư duy ứng phó sang tư duy chủ động, từ phản ứng trước thách thức sang dẫn dắt bằng tầm nhìn chiến lược. Nghiên cứu khoa học, đặc biệt là nghiên cứu dự báo, cần được đặt ở vị trí trung tâm trong quy trình xây dựng chính sách, nhằm chuẩn bị tốt hơn cho những giai đoạn tiếp theo, trong bối cảnh môi trường quốc tế còn nhiều bất định và cạnh tranh chiến lược ngày càng gia tăng.
Để góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Việt Nam
Trên cơ sở đường lối đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24-1-2025, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế trong tình hình mới” và Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, cùng với cách tiếp cận và phân tích đã nêu, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu phục vụ triển khai đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đồng thời bảo đảm và phát huy tối đa lợi ích quốc gia - dân tộc trong kỷ nguyên mới, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:
Một là, về chủ đề nghiên cứu, bên cạnh các chủ đề truyền thống, như chính sách đối ngoại của quốc gia, các cặp quan hệ song phương và đa phương, cần đẩy mạnh nghiên cứu chuyên sâu về những khía cạnh cụ thể, các vấn đề mới nhằm giải quyết những thách thức chính sách thiết thực trong bối cảnh tình hình quốc tế biến đổi nhanh chóng. Tăng cường tiếp cận các chủ đề nổi bật hiện nay, chẳng hạn như vai trò của trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại; các vấn đề liên quan đến cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đối ngoại, như lưu chuyển dữ liệu xuyên biên giới, bảo vệ chủ quyền quốc gia trong không gian mạng, cũng như các mô hình liên kết số đa phương. Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện “Bộ tứ trụ cột”(11) nghị quyết của Bộ Chính trị (ngày 18-5-2025), Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Hoàn thiện thể chế, chủ động tháo gỡ các rào cản pháp lý, hành chính, tạo lập môi trường thuận lợi cho sáng tạo, nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, biến thể chế thành lợi thế cạnh tranh quốc gia”(12).
Hai là, về mặt tiếp cận và phương pháp nghiên cứu, phát huy hiệu quả hơn nữa các nghiên cứu mang tính hệ thống, liên ngành và đa ngành. Bản chất nghiên cứu chính sách đối ngoại là nghiên cứu về các vấn đề mang tầm chiến lược, gắn liền với lợi ích thiết thân của người dân, doanh nghiệp và địa phương. Vì vậy, việc bảo đảm tính toàn diện trong nhận diện, đánh giá vấn đề và đề xuất giải pháp là hết sức cần thiết. Các nghiên cứu cũng cần phản ánh đa chiều quan điểm và tiếng nói của các chủ thể cùng đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách, đồng thời đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, liên thông hơn giữa các cơ quan và viện nghiên cứu.
Ba là, về nguồn tư liệu phục vụ công tác nghiên cứu, chú trọng hơn vai trò của các dữ liệu khoa học khách quan. Đơn cử như, các quyết sách của Việt Nam về biến đổi khí hậu cần dựa trên những nghiên cứu và số liệu khoa học đáng tin cậy. Trong nhiều trường hợp, nghiên cứu chính sách đối ngoại cần tiếp cận các bộ cơ sở dữ liệu lớn, uy tín như của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), các cơ quan chuyên trách của Liên hợp quốc, cũng như các nền tảng dữ liệu học thuật, như ProQuest, JSTOR và các công cụ AI. Theo hướng này, cần tăng cường ứng dụng các phương pháp nghiên cứu định lượng, đặc biệt trong việc đánh giá hiệu quả và tác động của chính sách.
Bốn là, về tổ chức nghiên cứu, tiếp tục tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nghiên cứu, tham mưu chính sách thuộc các bộ, ngành, tổ chức và địa phương nhằm phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị, đồng thời tránh trùng lặp về chủ đề và đối tượng nghiên cứu. Các cơ quan quản lý khoa học như Bộ Khoa học và Công nghệ cần phát huy vai trò điều phối, điều tiết mạnh mẽ hơn các hoạt động nghiên cứu để bảo đảm chất lượng và hiệu quả. Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu chính sách đối ngoại cũng là hướng đi cần thiết, tùy theo từng lĩnh vực, vấn đề và đối tác cụ thể, đồng thời cần hướng tới việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế cao hơn, như xuất bản công trình khoa học theo chuẩn ISI/Scopus.
Năm là, về nguồn lực, tiếp tục chú trọng nâng cao năng lực cho các cơ quan nghiên cứu, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu. Việc tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ cho cán bộ nghiên cứu là hết sức cần thiết. Đồng thời, cải thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn ngân sách dành cho nghiên cứu chính sách đối ngoại. Như đã đề cập, đầu tư cho công tác nghiên cứu hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và còn khá khiêm tốn . Do vậy, một nguồn lực được chuẩn bị kỹ lưỡng và sử dụng hiệu quả là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của công tác nghiên cứu.
Công tác nghiên cứu khoa học, trong đó có nghiên cứu chính sách đối ngoại tại Việt Nam, đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong những năm qua. Những thành tựu đối ngoại kể từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay đều có sự đóng góp quan trọng từ các kết quả nghiên cứu và tham mưu của các cơ quan trong lĩnh vực đối ngoại, từ công tác đánh giá, dự báo tình hình đến hoạch định và triển khai chính sách. Cùng với tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nghiên cứu chính sách đối ngoại ở Việt Nam đã mở rộng về nội dung, phạm vi chương trình và đa dạng hơn về chủ thể tham gia, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý thống nhất của Nhà nước và sự phối hợp tích cực của các cơ quan nghiên cứu và hoạch định chính sách.
Trước yêu cầu ngày càng cao về tính khách quan và chủ quan, nghiên cứu chính sách đối ngoại ở Việt Nam cần tiếp tục được cải tiến một cách phù hợp. Trước hết, cần khẳng định nghiên cứu là khâu bắt buộc và đóng vai trò nền tảng trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách. Mọi chính sách cần dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học bài bản, hệ thống và có sự phản biện khách quan. Sự hợp tác liên thông, chặt chẽ giữa các cơ quan nghiên cứu và tham mưu là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh các vấn đề đối ngoại ngày càng mang tính liên ngành và đa ngành. Nghiên cứu chính sách đối ngoại cần được tiếp cận ở phạm vi toàn chính phủ, thậm chí toàn hệ thống. Khả năng phối hợp hiệu quả giữa các chủ thể tham gia hoạch định và triển khai chính sách quyết định chất lượng và tính kịp thời của các phản ứng chính sách. Đồng thời, việc đầu tư nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ nghiên cứu và bố trí nguồn lực hợp lý cần có bước chuyển biến căn bản để đáp ứng yêu cầu xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại trong kỷ nguyên mới, góp phần bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, nhất là giai đoạn từ nay đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045./.
------------------------
* Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học “Tổng kết, đánh giá, bài học kinh nghiệm ngoại giao Việt Nam sau 40 năm đổi mới và kiến nghị chính sách cho Việt Nam từ nay đến năm 2030” thuộc “Chương trình nghiên cứu Tổng kết lịch sử ngoại giao Việt Nam 40 năm (1986 - 2026)"".
(1) “Data for better climate action” (Tạm dịch: Dữ liệu vì hành động khí hậu hiệu quả hơn), UN Environment Programme, 2021, https://unepdtu.org/data-for-better-climate-action/
(2) Rujing Ye - I.A. Khan: “A Comparison of Foreign Policies between China and the U.S. Based on Political Culture Theories” (Tạm dịch: So sánh chính sách đối ngoại giữa Trung Quốc và Mỹ dựa trên các lý thuyết về văn hóa chính trị), SHS Web of Conferences, Vol. 187, No. 5, ngày 20-3-2024
(3) Hillary Briffa: “Small States and COVID-19: Challenges and Opportunities for Multilateralism” (Tạm dịch: Các quốc gia vừa và nhỏ và COVID-19: Thách thức và cơ hội đối với chủ nghĩa đa phương), Global Perspectives, Vol. 4, No. 1, 2023, https://online.ucpress.edu/gp/article/4/1/57708/195113/Small-States-and-COVID-19-Challenges-and
(4) Xem: “Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm: Ngoại giao Việt Nam phải vươn lên xứng đáng là “đội quân tiên phong”, binh chủng hợp thành của cách mạng Việt Nam”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 29-8-2025, https://nvsk.vnanet.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-ngoai-giao-viet-nam-phai-vuon-len-xung-dang-la-doi-quan-tien-phong-binh-chung-hop-thanh-cua-cach-mang-viet-nam-8-151308.vna
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 165
(6) Bùi Thanh Sơn: “Ngoại giao Việt Nam đóng góp vào giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước - Những bài học lịch sử còn nguyên giá trị”, Báo Điện tử Chính phủ, ngày 30-4-2025, https://baochinhphu.vn/ngoai-giao-viet-nam-dong-gop-vao-giai-phong-mien-nam-thong-nhat-dat-nuoc-nhung-bai-hoc-lich-su-con-nguyen-gia-tri-102250429175746744.htm
(7) James G McGann: “2020 Global Go To Think Tank Index Report” (Tạm dịch: Báo cáo Chỉ số các viện nghiên cứu hàng đầu toàn cầu năm 2020), Think Tanks and Civil Societies Program (TTCSP), University of Pennsylvania, ngày 28-1-2021, https://www.bruegel.org/sites/default/files/wp-content/uploads/2021/03/2020-Global-Go-To-Think-Tank-Index-Report-Bruegel.pdf
(8) Huỳnh Thành Đạt: “Tăng cường đầu tư đúng tầm cho nghiên cứu cơ bản - Nhân tố nền tảng tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vì sự phát triển bền vững đất nước”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 25-9-2022, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tang-cuong-dau-tu-dung-tam-cho-nghien-cuu-co-ban-nhan-to-nen-tang-tao-dot-pha-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-vi-su-phat-trien-ben-v
(9) Xem: “University of Chinese Academy of Social Sciences (Beijing)” (Tạm dịch: Viện Khoa học xaxhooji Trung Quốc)”, Concurrences, 2025, https://awards.concurrences.com/en/authors/university-of-chinese-academy-of-social-sciences
(10) Cheryl Tan: “MOE to raise spending to $457m over next five years to boost social science and humanities research” (Tạm dịch: MOE sẽ tăng chi tiêu lên 457 triệu USD trong năm năm tới để thúc đẩy nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn), The Straitstimes, ngày 21-9-2021, https://www.straitstimes.com/singapore/moe-to-raise-spending-to-457m-over-next-five-years-to-boost-social-science-and-humanities
(11) Bốn Nghị quyết của Bộ Chính trị, bao gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, “Về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”; Nghị quyết 59-NQ/TW, ngày 24-1-2025, “Về hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết 66-NQ/TW, ngày 30-4-2025, “Về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” và Nghị quyết 68-NQ/TW, ngày 4-5-2025, “Về phát triển kinh tế tư nhân”
(12) Tô Lâm: “Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại hội nghị triển khai nghị quyết 66 và nghị quyết 68”, Báo Điện tử Chính phủ, ngày 21-5-2025, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-hoi-nghi-trien-khai-nghi-quyet-66-va-nghi-quyet-68-119250518131926033.htm
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1098802/tang-cuong-cong-tac-nghien-cuu%2C-gop-phan-nang-cao-hieu-qua-hoach-dinh-va-trien-khai-chinh-sach-doi-ngoai-cua-viet-nam-trong-ky-nguyen-moi.aspx
Bình luận (0)