Dự thảo Nghị định nêu rõ, nguyên tắc xác định học phí đối với cơ sở giáo dục công lập là bù đắp chi phí, có tích lũy hợp lý theo Luật Giá và lộ trình tính đủ chi phí phù hợp với từng cấp học, điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa bàn dân cư, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm.
Với cơ sở giáo dục dân lập, tư thục được chủ động xây dựng mức học phí, giá các dịch vụ khác trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo (trừ dịch vụ do Nhà nước định giá) đảm bảo bù đắp chi phí, có tích lũy hợp lý theo quy định của Luật Giá, xây dựng lộ trình tăng học phí các năm kế tiếp không quá 15% với đại học, không quá 10% với mầm non, phổ thông. Các cơ sở giáo dục, đào tạo này phải thực hiện công khai theo quy định và chịu trách nhiệm giải trình với người học, xã hội về mức thu.

Theo quy định tại Dự thảo Nghị định, khung học phí từnăm học 2025-2026 trở đi đối với các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập chưa đảm bảo chi thường xuyên cụ thể như sau: Đối với bậc mầm non, tiểu học có mức thu 300.000 - 540.000 đồng/học sinh/tháng đối với khu vực thành thị; từ 100.000 - 220.000 đối với khu vực nông thôn; từ 50.000 - 110.000 đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Đối với bậc THCS: Mức thu từ 300.000 - 650.000 đồng/học sinh/tháng ở thành thị; từ 100.000 - 270.000 ở nông thôn; từ 50.000 - 170.000 ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Đối với bậc THPT: Mức thu từ 300.000 - 650.000 đồng/học sinh/tháng ở thành thị; từ 200.000 - 330.000 ở nông thôn; từ 100.000 - 220.000 ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Về lộ trình học phí, từ năm 2026-2027 đến năm học 2035-2036, mức trần học phí sẽ điều chỉnh theo tỉ lệ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm và khả năng chi trả của người dân nhưng không quá 7,5% để đạt mốc tính đủ chi phí đào tạo vào năm học 2035-2036.
Từ năm học 2036-2037 trở đi, mức trần học phí được điều chỉnh với khả năng chi trả của người dân, điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương nhưng tối đa không vượt quá tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng tại thời điểm xác định mức học phí so với cùng kỳ năm trước do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công bố.
Cũng tại Dự thảo Nghị định, quy định mức trần học phí của cơ sở giáo dục đại học công lập chưa tự đảm bảo chi thường xuyên của năm học 2025-2026 và 2026-2027 được quy định theo lĩnh vực ngành đào tạo. Trong đó, mức trần học phí trong 2 năm học tới của lĩnh vực y, dược là trên 3,1 triệu đồng/sinh viên/tháng và 3,5 triệu đồng/sinh viên/tháng, các ngành khối sức khỏe khác là trên 2,3 triệu đồng và trên 2,6 triệu đồng. Các lĩnh vực khác dao động từ trên 1,5 triệu đến trên 2,0 triệu đồng.
Các cơ sở giáo dục công lập tự đảm bảo chi thường xuyên xác định mức học phí tối đa bằng 2 lần mức trần học phí của cơ sở chưa tự đảm bảo chi thường xuyên. Các cơ sở giáo dục công lập tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư xác định mức học phí tối đa bằng 2,5 lần mức trần học phí của cơ sở chưa tự đảm bảo chi thường xuyên.
Dự thảo Nghị định cũng quy định khung học phí với các trình độ cao đẳng, trung cấp tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập theo nhóm ngành đào tạo. Trong đó, năm học 2025-2026, nhóm ngành Sức khỏe có mức học phí cao nhất là 2,38 triệu đồng/sinh viên/tháng và năm học 2026-2027 sẽ tăng lên 2,8 triệu đồng/sinh viên/tháng; các ngành học khác giao động từ 1,4 triệu đến 2,4 triệu đồng/sinh viên/tháng. Ngoài ra, dự thảo Nghị định cũng quy định về dịch vụ phục vụ, hỗ trợ giáo dục, quy định đối tượng miễn, giảm, hỗ trợ học phí và chi phí học tập.
Nguồn: https://cand.com.vn/giao-duc/hoc-phi-dai-hoc-se-tang-den-muc-nao--i774782/
Bình luận (0)