Theo phân tích của GS.TS Tạ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á mà còn đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thể chế quốc gia mới chưa từng có trong lịch sử Việt Nam - hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ nhân dân.

Trước bối cảnh dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ, với mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ thể chế quốc gia hiện đại, dân chủ, hiệu quả và hội nhập đang là yêu cầu tất yếu, cấp thiết đặt ra.
“Điều đó đòi hỏi chúng ta không chỉ hướng đến tương lai, mà còn cần phải nhìn về quá khứ, khai thác chiều sâu lịch sử để phát huy những bài học quý giá từ thực tiễn xây dựng hệ thể chế sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong bối cảnh, điều kiện lịch sử mới”, GS.TS Tạ Ngọc Tấn khẳng định.
Phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám trong quản trị quốc gia hiện đại
Trước năm 1945, Việt Nam là thuộc địa nửa phong kiến, không có hiến pháp, pháp luật độc lập. Nhà nước bảo hộ đàn áp, bộ máy quan liêu, luật lệ phục vụ giai cấp thống trị, nhân dân mất mọi quyền dân chủ.
Cách mạng Tháng Tám 1945 đã phá tan xiềng xích nô lệ, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế ngàn năm, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và CNXH. Ngay sau thắng lợi, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khẩn trương tiến hành xây dựng một hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ nhân dân toàn diện trên các lĩnh vực “dẫn dắt” quá trình kiến tạo, xây dựng xã hội mới và bảo vệ thành quả cách mạng.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đây không chỉ là lời tuyên bố chính trị mà còn là văn bản pháp lý nền tảng, mang tính hiến định đầu tiên, xác lập chủ quyền quốc gia và nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, tự do của Nhà nước mới.
Việc thiết lập chính thể cộng hòa, một nhà nước dân chủ nhân dân đã đánh dấu sự thay đổi căn bản về thể chế từ thuộc địa nửa phong kiến chuyển sang nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện có giá trị như một tuyên bố thể chế, khẳng định “quyền tự quyết dân tộc và quyền làm chủ của Nhân dân”, đồng thời đặt nền móng cho việc xây dựng một hệ thể chế quốc gia độc lập trên cơ sở quyền lực thuộc về nhân dân.
Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã ban hành nhiều sắc lệnh về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục; xóa bỏ pháp luật cũ phản dân chủ, kế thừa chọn lọc những yếu tố phù hợp để tổ chức bộ máy hành chính mới.
Một trong những bước đi trong xây dựng hệ thể chế quốc gia dân chủ nhân dân chính là việc thiết lập cơ sở lập hiến và nền pháp quyền. Ngay từ tháng 9/1945, Sắc lệnh tổ chức Tổng tuyển cử toàn quốc được ban hành.

Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên thể hiện tinh thần dân chủ rộng rãi, mọi công dân từ 18 tuổi đều có quyền bầu cử. Quốc hội khóa I ra đời, thông qua Hiến pháp 1946, bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ, phản ánh khát vọng tự do, bình đẳng, làm chủ của nhân dân; quy định chế độ chính trị, quyền công dân, tổ chức bộ máy nhà nước, nguyên tắc phân quyền, kiểm soát quyền lực; đề cao dân chủ, bảo đảm các quyền tự do cơ bản và trở thành khuôn mẫu hiến định đầu tiên của Việt Nam.
Cùng với đó, ngay sau khi giành được chính quyền, một trong những việc đầu tiên mà chính quyền cách mạng làm là đặt trọng tâm vào việc hình thành bộ máy quản trị từ Trung ương đến cơ sở, coi đây là nền tảng thiết yếu của thể chế dân chủ mới. Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã được thành lập.
Ủy ban nhân dân, Ủy ban kháng chiến các cấp ra đời, thực hiện quản lý hành chính, duy trì an ninh, chăm lo đời sống nhân dân. Các đoàn thể như Việt Minh, Liên Việt, Hội Phụ nữ cứu quốc, Đoàn Thanh niên cứu quốc… trở thành nòng cốt gắn kết Đảng, chính quyền, quần chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra” và “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Ngày 22/11/1945, Sắc lệnh 63/SL quy định Ủy ban hành chính các cấp do dân bầu, thể hiện dân chủ trực tiếp, trao quyền cho nhân dân quản lý làng xã.
Bộ máy hành chính mới được chú trọng xây dựng hiệu quả, gần dân, do dân và vì dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Không có tổ chức thì làm việc gì cũng khó. Có tổ chức tốt thì việc gì cũng dễ dàng”. Người coi cán bộ là then chốt: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
Đặc biệt, Chính phủ đã trọng dụng trí thức, chuyên gia chế độ cũ như Bùi Bằng Đoàn (Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn), Phan Kế Toại (Khâm sai đại thần Bắc Bộ của Chính phủ Trần Trọng Kim), Phạm Khắc Hòe (Đổng lý Ngự tiền đức vua Bảo Đại), Tham tri Đặng Văn Hướng; Vi Văn Định (cựu Tổng đốc Thái Bình), Hồ Đắc Điềm (cựu Tổng đốc Hà Đông)…
Chính sách này thể hiện một tư duy thể chế mở, hữu dụng và bao dung, không câu nệ lý lịch mà đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Đây cũng là cách tiếp cận nhân văn trong phát triển thể chế dựa trên tri thức mà Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng hết sức linh hoạt để xây dựng hệ thể chế quốc gia trong bối cảnh chuyển giao lịch sử lúc bấy giờ.
Những bài học về xây dựng hệ thể chế sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trên đây không chỉ có giá trị lịch sử mà còn mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
“Việc thiết lập thể chế chính trị, pháp lý; xây dựng cơ sở lập hiến và pháp quyền; tổ chức quản trị hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở và trọng dụng trí thức là những trụ cột cốt lõi của hệ thể chế hiện đại. Trong kỷ nguyên mới, việc kế thừa và phát triển những bài học đó là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển bền vững và khẳng định vị thế, uy tín trên trường quốc tế”, GS.TS Tạ Ngọc Tấn nhấn mạnh.
Phát huy bài học 1945 trong kỷ nguyên mới
Bước vào giai đoạn phát triển mới, Việt Nam không chỉ bảo vệ độc lập mà còn khẳng định cơ đồ, vị thế trên trường quốc tế. Đất nước chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu, dựa trên khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, hội nhập toàn diện, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
Song hành cùng cơ hội là thách thức: an ninh – kinh tế – chính trị quốc tế biến động; khoảng cách phát triển; nguy cơ tụt hậu nếu không kịp đổi mới thể chế. Đòi hỏi cấp thiết là xây dựng hệ thể chế đủ mạnh, linh hoạt, hiện đại để giữ vững ổn định chính trị – xã hội và dẫn dắt phát triển bền vững.
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật, tháo gỡ “nút thắt”, “điểm nghẽn”, giải phóng nguồn lực. Thể chế, pháp luật đã hình thành đồng bộ nhưng vẫn còn chồng chéo, thiếu minh bạch. Cần hành động quyết đoán, đổi mới cách tiếp cận: thay vì kiểm soát, cấm đoán, phải “mở rộng không gian pháp lý”, trao quyền nhiều hơn cho xã hội, minh bạch quy trình xây dựng chính sách, tăng phản biện xã hội.
Hai là, phát huy dân chủ, vai trò chủ thể của nhân dân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bài học lớn nhất là phát huy cao độ tinh thần làm chủ của nhân dân, không chỉ trong khởi nghĩa giành chính quyền, mà còn trong việc xây dựng thể chế mới. Trong kỷ nguyên mới, cần nâng vai trò nhân dân từ đối tượng thụ hưởng thành chủ thể kiến tạo, đồng hành và kiểm soát quyền lực.
Ba là, tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và chính quyền địa phương 2 cấp, khắc phục chồng chéo, quan liêu, thủ tục rườm rà. Việc xây dựng mô hình mới phải gắn với cơ chế chính sách công bằng, không ai bị bỏ lại phía sau, đồng thời giữ chân, phát huy cán bộ có năng lực, phẩm chất.
Bốn là, đổi mới tư duy, chính sách về nguồn lực con người. Bài học trọng dụng nhân tài sau 1945 vẫn nguyên giá trị. Trong bối cảnh cạnh tranh trí tuệ toàn cầu, cần xây dựng thể chế khuyến khích, bảo vệ, trọng dụng người tài, tạo điều kiện trí thức trong và ngoài nước tham gia hoạch định chính sách, cải cách, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo. Thể chế nhân sự phải chuyển từ “quản lý con người” sang “tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện”, lấy đóng góp thực chất làm thước đo.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, quyền làm chủ của nhân dân mà còn đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ nhân dân với những bài học quý báu đối với cách mạng Việt Nam.
“Việc tiếp tục hoàn thiện hệ thể chế quốc gia không chỉ là phát huy di sản lịch sử, mà còn là yêu cầu bắt buộc để nâng cao năng lực quản trị quốc gia, bảo đảm dân chủ, phát triển nhanh và bền vững. Một hệ thể chế hiện đại, dân chủ, thích ứng sẽ là điều kiện quyết định để Việt Nam vươn mình mạnh mẽ trong trong kỷ nguyên mới”, GS.TS Tạ Ngọc Tấn khẳng định.
Bài viết có sử dụng tư liệu tại Hội thảo “Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9: Giá trị thời đại và sức sống trường tồn”.
Nguồn: https://khoahocdoisong.vn/cach-mang-thang-tam-1945-va-di-san-xay-dung-the-che-cho-thoi-dai-moi-post2149046785.html
Bình luận (0)