Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

“Xổ ra” và “sổ ra”

(Baothanhhoa.vn) - Chương trình Vua Tiếng Việt đưa ra câu hỏi: “Có bao nhiêu lỗi sai chính tả trong câu: “Cái nút vừa sổ ra, thì loeng xoeng, cả món tiền rơi tiệt cả xuống ghạch”?

Báo Thanh HóaBáo Thanh Hóa04/08/2025

“Xổ ra” và “sổ ra”

Người chơi trả lời là “Hai”, liền được xác nhận là “Đáp án chính xác”, và hai chữ được đánh dấu “sai chính tả” là “sổ” và “ghạch”.

“Ghạch”, thì đúng là sai, nhưng “sổ ra” cần phải xem lại.

Trước tiên hãy khảo sát từ điển để xem “sổ” và “xổ” có gì giống nhau, khác nhau.

- Đại Nam quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus Của) giảng “sổ” là “sẩy ra, sút ra, bùng ra”, và liệt kê “sổ ra” = “sút dây, sẩy ra”; “sổ dây” = “sút dây”; “sổ lồng” = “sẩy ra khỏi lồng”.

“Sổ ra” nghĩa là “sút dây”. Vậy “sút dây” là gì? Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức) giảng “sút dây” là “Vuột mối dây” (tức mối dây bị tuột ra) và lấy ví dụ “Cái gàu sút dây rớt xuống giếng, ngựa sút dây chạy mất”.

Với từ “xổ”, Đại Nam quấc âm tự vị giảng là “đổ ra, trút ra; tháo ra; xả đi; cổi đi”, và lấy ví dụ “xổ súng” = “bắn súng” (như vậy ta thấy xổ đồng nghĩa với xả); “xổ buồm” = “giương buồm”. Riêng từ “xổ ra”, từ điển này không giải nghĩa mà chú là “id” (ít dùng).

Ta nhận thấy gì trong cách giảng của Đại Nam quấc âm tự vị?

Đó là “sổ” dùng cho trường hợp bị tuột ra, bị sổng ra, bung ra một cách tự nhiên, ngoài ý muốn; còn “xổ” là cởi ra, bỏ ra, tháo ra một cách chủ động.

Cuốn Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức - 1931), ra đời sau Đại Nam quấc âm tự điển 35 năm, ghi nhận tương tự, khi ghi cho “sổ” nghĩa “Buột ra, thoát khỏi chỗ phải giữ, chỗ phải nhốt”, và lấy ví dụ “Sổ nút lạt. Chim sổ lồng. Gà sổ chuồng. Con mới sổ”; còn “xổ”, nghĩa là “Mở ra, tháo ra, buột ra”, ví dụ “Xổ buồm. Xổ số. Thuốc xổ. Con mới xổ. Xổ lạt”.

Với tiếng Việt hiện đại thì sao?

Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, bản của Viện Ngôn ngữ), giảng “sổ” là “Tuột ra hoặc tháo cho tuột ra cái đã tết, đã buộc lại”, và lấy ví dụ “Sổ tóc ra búi lại. Vải sổ lông...”. Theo đây, “sổ” dùng chung cho cả trạng thái bị động (bị tuột, bị bung ra), lẫn chủ động (làm cho bung ra). Còn với “xổ”, từ điển này hạn chế ở nghĩa “mở ra, tháo cho mở ra cái đang được buộc” (chủ động làm cho bung ra).

Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê, bản của Vietlex) giảng “sổ” là “tuột ra [nói về cái gì đã được khâu, buộc, tết, v.v.]”, và lấy ví dụ “gấu quần bị sổ ~ sổ đường chỉ ~ sổ tóc ra chải”; mục “xổ”, giảng: “mở tung ra, tháo tung ra [cái đang được xếp lại, buộc lại]”, và lấy ví dụ “khăn khố bị xổ tung ~ “Nga mím môi, nghiến răng, rồi xổ tóc ra, để vấn lại”. (Nguyễn Công Hoan)”.

Như vậy, từ điển của Hoàng Phê (bản Vietlex) vẫn có sự phân biệt giữa nghĩa của “sổ” (bị động) với “xổ” (chủ động), giống như Đại Nam quấc âm tự vị và Việt Nam tự điển. Tuy nhiên, ở phần ví dụ, từ điển này lại đưa ra ngữ liệu “sổ tóc ra chải”, và “xổ tóc ra, để vấn lại”. Thế là “sổ” và “xổ” trở thành hai từ đồng nghĩa, hoặc được xem là trường hợp “lưỡng khả” về chính tả.

Khảo sát thêm cuốn Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên). Sách này có cách giảng tương tự như từ điển Hoàng Phê (bản Viện Ngôn ngữ), khi cho “sổ” nghĩa “tuột ra hoặc tháo cho tuột ra cái đã tết, đã buộc”, và lấy ví dụ “nút buộc bị sổ <> Khăn sổ tung ra <> sổ tóc ra búi lại <> vải sổ lông”. Ở mục “xổ”, giảng là “mở, tháo tung ra cái đang buộc, đang trùm phủ: xổ tóc ra”.

Vậy, nếu áp vào tình huống của “con mẹ Nuôi” thì “sổ ra”, hay “xổ ra” đúng chính tả?

Chúng ta lại phải xét thêm về ngữ liệu. Câu “Cái nút vừa sổ ra...”, trích trong truyện ngắn “Đồng hào có ma” của Nguyễn Công Hoan. Tóm tắt:

Một buổi sáng, “con mẹ Nuôi” đến công đường trình đơn về việc bị trộm sạch tài sản. Để được vào hầu quan, mẹ Nuôi đã phải đút lót cho tên lính lệ hai hào, nhưng nó lại không hề trình báo. Mẹ Nuôi đánh liều vào gặp quan huyện Hinh, thì bị quan hăm dọa, gây áp lực, khiến “nó” vô cùng lo sợ. “Nó đứng ở cạnh bàn, run lên bần bật. Nó liếc nhìn quan. Ngài oai vệ quá. Nó lại sợ hơn nữa. Nhưng dù run hay sợ, nó cũng không quên được việc vi thiềng quan. Nhưng tiền trình diện quan, nó lại buộc vào trong dải yếm. Nó cởi ra mới lấy được.

Nó mới lúi húi rút cái nút buộc ra. Nó sợ quan chờ lâu, nên phải vội vàng. Mà vì vội vàng, lại lo quan gắt, nên nó lóng cóng. Cái nút vừa xổ ra, thì loẻng xoẻng, cả món tiền rơi tiệt cả xuống gạch”...

Theo như trên, “con mẹ Nuôi” “rút cái nút buộc ra” (hoàn toàn chủ động) nhưng vì “lóng cóng”, nên cái nút buộc bị “sổ ra” (ngoài ý muốn) khiến “cả món tiền rơi tiệt cả xuống gạch”.

Như vậy, viết “cái nút vừa sổ ra” sẽ chính xác hơn (vì diễn tả tình huống bị động). Tuy nhiên, xét quá trình phát triển, thay đổi của tiếng Việt từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cho đến thời hiện đại, thì “sổ ra” và “xổ ra” là “lưỡng khả”, tức cả hai đều được chấp nhận.

Hoàng Trinh Sơn (CTV)

Nguồn: https://baothanhhoa.vn/xo-ra-va-so-ra-256967.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Chiêm ngưỡng núi lửa Chư Đăng Ya triệu năm tuổi ở Gia Lai
Võ Hạ Trâm mất 6 tuần để hoàn thành dự án âm nhạc ca ngợi Tổ quốc
Quán cà phê Hà Nội rực sắc cờ đỏ sao vàng chào mừng 80 năm Quốc khánh 2/9
Những cánh bay trên thao trường A80

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm