Để đạt được mục tiêu đó, cần quyết tâm chính trị rất cao, đi kèm nguồn lực cụ thể và cách làm đột phá.
Mục tiêu vươn tầm xếp hạng thế giới
Nghị quyết 71 đặt mục tiêu đến năm 2035, có ít nhất 2 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín; đến năm 2045, ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín. Theo ông Bùi Khánh Nguyên - chuyên gia giáo dục độc lập tại TPHCM - những mục tiêu này hoàn toàn có cơ sở.
Bên cạnh đó, một số tổ chức như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)... đã đưa ra dự báo khả quan về triển vọng Việt Nam trở thành nền kinh tế thuộc nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới về quy mô GDP vào năm 2045, dựa trên các yếu tố hiện tại. Do đó, ông Bùi Khánh Nguyên cho rằng, mục tiêu “Việt Nam có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng và chất lượng, đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới” vào năm 2045 cũng là hợp lý.
“Với nền kinh tế phát triển đạt tới quy mô GDP khoảng 2.000 - 2.500 tỷ USD (gấp 4 - 5 lần hiện nay) và thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ 20.000 USD/năm (cao hơn Malaysia hiện nay) vào năm 2045, Việt Nam chắc chắn có được nguồn lực to lớn để đầu tư vào phát triển giáo dục, nhất là xây dựng các đại học nghiên cứu lọt vào top 100 của thế giới trên các bảng xếp hạng như THE, ARWU, QS”, ông Bùi Khánh Nguyên phân tích thêm.
Ở góc nhìn thận trọng hơn, ông Nguyễn Vinh San - thành viên nhóm nghiên cứu xếp hạng đại học VNUR - nhận định, những mục tiêu trên không phải bất khả thi, nhưng những cũng rất thách thức để đạt được.
Ông Nguyễn Vinh San lý giải, hiện nay, Việt Nam đã có một số trường lọt vào top 500 thế giới và top 200 châu Á theo QS, THE (2 Đại học Quốc gia, Trường Đại học Duy Tân, Trường Đại học Tôn Đức Thắng). Tuy nhiên, số lượng còn ít, thứ hạng chưa ổn định và phần lớn mới dừng ở nhóm 801 - 1.000 thế giới hoặc 301 - 500 châu Á. Để từ mức xếp hạng hiện nay vươn lên top 200 châu Á và top 100 thế giới, cần sự thay đổi toàn diện, đồng bộ và đầu tư rất lớn từ chính các trường đại học và Nhà nước.
Các trường đại học của Việt Nam có lợi thế về tốc độ phát triển, chính sách hỗ trợ mới từ Đảng và Nhà nước, cùng xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; nhưng điểm xuất phát của chúng ta còn thấp.
Chia sẻ cụ thể khó khăn giáo dục đại học Việt Nam gặp phải khi muốn thực hiện mục tiêu vươn tầm xếp hạng thế giới, ông Nguyễn Vinh San đưa ra bốn nhóm: Tài chính và cơ sở vật chất; nhân lực; quản trị đại học; văn hóa học thuật và hội nhập.
Về tài chính và cơ sở vật chất: Các bảng xếp hạng quốc tế uy tín (QS, THE, ARWU) đều đánh giá cao tiêu chí công bố quốc tế, trích dẫn, nghiên cứu và mức đầu tư cho R&D. Trong khi đó, chi ngân sách cho giáo dục đại học, nghiên cứu khoa học của Việt Nam còn hạn chế, chỉ khoảng 0,4 - 0,5% GDP, thấp hơn nhiều so với các nước có trường đại học top 100 thế giới. Hạ tầng phòng thí nghiệm, thư viện điện tử, dữ liệu nghiên cứu còn thiếu và chưa đồng bộ.
Về đội ngũ nhân lực: Tỷ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ còn thấp so với chuẩn quốc tế; thu nhập, cơ chế đãi ngộ chưa đủ hấp dẫn để thu hút nhân tài trong và ngoài nước; năng lực ngoại ngữ, khả năng công bố quốc tế còn hạn chế, dẫn đến số lượng và chất lượng bài báo quốc tế chưa đủ mạnh.
Về quản trị đại học: Tự chủ đại học mới ở giai đoạn khởi đầu, còn nhiều ràng buộc về tài chính, tổ chức, nhân sự; cơ chế quản trị chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế (hội đồng trường hoạt động hình thức, thiếu quyền tự quyết thực sự); chưa có chiến lược dài hạn rõ ràng để tham gia xếp hạng quốc tế, nhiều trường còn chưa sẵn sàng công khai dữ liệu.
Về văn hóa học thuật và hội nhập: Văn hóa công bố quốc tế, tinh thần nghiên cứu khoa học chưa thực sự lan tỏa rộng rãi; hợp tác quốc tế tuy phát triển nhưng chưa bền vững, thiếu liên kết sâu trong nghiên cứu, đồng hướng dẫn, đồng công bố; các chương trình đào tạo chuẩn quốc tế, bằng kép, trao đổi sinh viên chưa đủ sức cạnh tranh.

Cần quyết tâm chính trị cao, nguồn lực cụ thể, cách làm đột phá
Ông Nguyễn Vinh San cho rằng, mục tiêu chỉ khả thi khi có quyết tâm chính trị rất cao đi kèm nguồn lực cụ thể và cách làm đột phá. Cụ thể, để hiện thực hóa mục tiêu Nghị quyết 71, ngành Giáo dục cần triển khai đồng bộ các giải pháp:
Thứ nhất, đầu tư trọng điểm và phân tầng hệ thống. Lựa chọn khoảng 10 đại học trọng điểm quốc gia (Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TPHCM, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế, Đại học Cần Thơ, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Kinh tế TPHCM, Đại học Kinh tế Quốc dân, một số trường tư thục mạnh…) để tập trung đầu tư, tạo cơ chế và tránh đầu tư dàn trải; thiết lập cơ chế đặc thù về tài chính, nhân sự, tổ chức cho nhóm trường này.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ. Cần tăng nhanh tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ (ưu tiên cử đi đào tạo tại các trường top thế giới); mở rộng chương trình thu hút học giả quốc tế giảng dạy, nghiên cứu dài hạn tại Việt Nam; cải thiện thu nhập, môi trường làm việc để thu hút và giữ chân nhân tài.
Thứ ba, thúc đẩy nghiên cứu và công bố quốc tế. Theo đó, xây dựng quỹ nghiên cứu quốc gia hỗ trợ công bố trên tạp chí ISI/Scopus; phát triển phòng thí nghiệm liên ngành, trung tâm nghiên cứu xuất sắc; xây dựng cơ chế gắn nghiên cứu với doanh nghiệp, ứng dụng thực tiễn; giảm/miễn thuế cho doanh nghiệp khi đầu tư kinh phí cho nghiên cứu, hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu...
Thứ tư, đổi mới quản trị và tự chủ thông qua gỡ bỏ các rào cản hành chính trong tự chủ đại học, nghiên cứu khoa học và hợp tác doanh nghiệp; minh bạch hóa dữ liệu hoạt động, sẵn sàng tham gia xếp hạng quốc tế; ứng dụng công nghệ số trong quản trị đại học.
Thứ năm, quốc tế hóa mạnh mẽ với việc mở rộng chương trình liên kết đào tạo với các trường top 200 thế giới; khuyến khích trao đổi giảng viên, sinh viên dài hạn; thu hút sinh viên quốc tế tại các trường trọng điểm.
Còn theo ông Bùi Khánh Nguyên, mục tiêu cần phải đi kèm với chương trình hành động cụ thể để chỉ rõ cách thức thực hiện, thể hiện cam kết trong hiện thực hóa mục tiêu.
Chẳng hạn, phấn đấu có cơ sở giáo dục đại học nằm trong top 100 thế giới, chúng ta cần cam kết nguồn lực tương ứng nhằm xây dựng các đại học nghiên cứu xuất sắc. Các câu hỏi chiến lược cần trả lời là: Chúng ta sẽ đầu tư vào các đại học hiện có, hay sắp xếp lại một số đại học hàng đầu, hoặc xây dựng đại học hoàn toàn mới? Nhiều mô hình thành công lẫn thất bại ở Mỹ, các nước Trung Đông, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc... chúng ta có thể tham khảo để lựa chọn hướng đi phù hợp cho mình.
Cũng cần lưu ý, khi chúng ta nỗ lực vươn lên để lọt top 100, cơ sở giáo dục đại học của các quốc gia khác cũng sẽ liên tục cải tiến để nâng cao xếp hạng. Tức trong cuộc đua này, chúng ta phải nỗ lực gấp đôi: vừa vượt lên chính mình, vừa tránh bị tụt hậu so với các đại học và quốc gia khác.
Để cơ sở giáo dục đại học tiến nhanh trên các bảng xếp hạng quốc tế, chắc chắn phải đầu tư nguồn lực lớn. Tuy nhiên, việc đầu tư cần dựa trên năng lực và thành tích đơn vị chứng minh được qua các con số cụ thể. Nhấn mạnh điều này, ông Bùi Khánh Nguyên cho rằng, không nên chỉ định sẵn đại học nào được đầu tư để lọt top 100, mà nên đưa tiêu chí rõ ràng để một số đại học lớn đăng ký tham gia. Khi nhận ngân sách hỗ trợ, các trường phải cam kết hoàn thành chỉ tiêu (KPI) cụ thể theo từng giai đoạn.
“Một nền kinh tế thuộc top 20 thế giới cũng đòi hỏi nguồn lao động và chất xám tương xứng cả về số lượng, chất lượng. Do vậy, đầu tư xây dựng các cơ sở giáo dục đại học hàng đầu trong nước, bên cạnh việc tăng số lượng du học sinh, là một hành động rất đáng hoan nghênh”, ông Bùi Khánh Nguyên nhấn mạnh thêm.
Ngoài ra, chuyên gia này cũng đề xuất thành lập “Quỹ giáo dục quốc gia” để mọi người dân, nhà hảo tâm có thể cùng đóng góp, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu giáo dục. Hoặc xây dựng cơ chế để cơ sở giáo dục đại học có thể nhận các khoản tài trợ lớn, giúp phát triển các khoa, ngành quan trọng; cho phép các nhà hảo tâm tài trợ xây dựng giảng đường, phòng thí nghiệm, ký túc xá hiện đại… Những việc làm trên có thể giúp nâng cấp nhanh chóng cơ sở giáo dục đại học trong nước, tăng sức cạnh tranh trên toàn cầu.
“Mục tiêu Nghị quyết 71 đề ra là khá cao trong bối cảnh hiện tại nhưng cần thiết, phản ánh khát vọng vươn lên và hội nhập của nền giáo dục Việt Nam. Mục tiêu có khả thi hay không phụ thuộc vào quyết tâm chính trị, sự đột phá trong quản trị, mức đầu tư tài chính, đặc biệt là thay đổi văn hóa học thuật trong từng trường đại học”, ông Nguyễn Vinh San.
Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/dat-muc-tieu-nghi-quyet-so-71-can-quyet-tam-nguon-luc-cach-lam-dot-pha-post747816.html
Bình luận (0)