Sáng 12/9, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội nghị tổng kết Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025. Thứ trưởng Thường trực Phạm Ngọc Thưởng chủ trì hội nghị.
Năng lực sử dụng ngoại ngữ của học sinh, sinh viên cải thiện rõ rệt
Bà Nguyễn Thị Mai Hữu, Trưởng ban Ban quản lý Đề án Ngoại ngữ quốc gia cho biết, ngày 22/12/2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt việc điều chỉnh, bổ sung Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương đã tổ chức và hướng dẫn các đơn vị thuộc và trực thuộc thực hiện Đề án.
Bộ GD&ĐT đã ban hành Chương trình làm quen với tiếng Anh dành cho trẻ em mẫu giáo, Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh thí điểm các cấp (hệ 10 năm), Chương trình giáo dục phổ thông các môn ngoại ngữ khác, Chương trình các môn ngoại ngữ theo Chương trình Giáo dục phổ thông năm 2018, Chương trình các môn ngoại ngữ để tổ chức giảng dạy tại các cơ sở giáo dục thường xuyên... góp phần đẩy mạnh việc triển khai dạy và học ngoại ngữ được thống nhất trên cả nước.
Trước năm 2018, hoạt động cho trẻ mầm non làm quen với tiếng Anh chưa được chính thức triển khai; học sinh lớp 1, 2 chưa được chính thức học tiếng Anh; tỷ lệ học sinh lớp 3 đến lớp 12 được học chương trình tiếng Anh mới đạt dưới 36%.
Đến nay, việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân đã có nhiều chuyển biến tích cực. 63/63 tỉnh, thành phố triển khai Chương trình làm quen với tiếng Anh dành cho trẻ em mẫu giáo (với khoảng 28,5% trẻ mẫu giáo được làm quen tiếng Anh). 63/63 tỉnh, thành phố đã triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Tiếng Anh (trước đây là Chương trình môn Tiếng Anh hệ 10 năm) với tỷ lệ học sinh tham gia là 99,8% (100% học sinh tiểu học, 99% học sinh THCS, 99% học sinh THPT). 41/63 tỉnh, thành phố đang giảng dạy các ngoại ngữ khác ngoài tiếng Anh (với hơn 41.489 học sinh).
Đối với giáo dục đại học, hầu hết các cơ sở giáo dục đào tạo, bao gồm cả các trường quân đội và công an, đã xác định lộ trình áp dụng chuẩn đầu ra về năng lực ngoại ngữ theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Đa số các cơ sở giáo dục đại học đã công bố và áp chuẩn đầu ra về năng lực ngoại ngữ cho các chương trình đào tạo. Việc mở rộng thực hiện các chương trình đào tạo tiên tiến, chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài và các chương trình khác dạy bằng ngoại ngữ đã thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp góp phần nâng cao năng lực ngoại ngữ cho cả giảng viên và sinh viên.
Năng lực sử dụng ngoại ngữ của học sinh, sinh viên ngày càng được cải thiện rõ rệt. Nhiều hoạt động xây dựng môi trường học và sử dụng ngoại ngữ tạo sân chơi, các câu lạc bộ tiếng Anh, hoạt động ngoại khóa tiếng Anh cho học sinh, sinh viên được tổ chức, góp phần giúp học sinh thực hành kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
Phong trào học ngoại ngữ được Bộ GD&ĐT phát động, các địa phương và cơ sở giáo dục và đào tạo hưởng ứng rộng khắp trên cả nước. Đội ngũ giáo viên, giảng viên ngoại ngữ luôn được quan tâm bồi dưỡng thường xuyên về năng lực ngoại ngữ và năng lực sư phạm, cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới.
Đến nay, tỷ lệ giáo viên tiếng Anh các cấp học phổ thông đạt yêu cầu về năng lực ngoại ngữ để triển khai chương trình ngoại ngữ theo Chương trình GDPT 2018 đạt 88% (tăng 22% so với năm học 2017-2018).
Đối với các trường cao đẳng, đại học trực thuộc Bộ GD&ĐT, tỷ lệ giảng viên tiếng Anh đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ bậc 5 trở lên đạt 98% (tăng 7,6% so với năm học 2023-2024).
Tổng số giảng viên hiện đang dạy chuyên ngành bằng ngoại ngữ là 1.796 giảng viên và tỷ lệ đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ từ bậc 4 trở lên là 1.655 giảng viên, tương đương với 92,2%.
Sau 8 năm triển khai thực hiện, Đề án đã góp phần đổi mới việc dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân từ chương trình, nội dung và phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận xu hướng cập nhật, hiệu quả của thế giới trong dạy học ngoại ngữ.
Đề án đóng góp đáng kể việc nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu và học tập của đội ngũ tri thức, học sinh, sinh viên và người lao động, giúp nguồn nhân lực tại thời điểm hiện nay có tính cạnh tranh hơn nhiều so với 10 năm trước đây. Cụ thể số người có chứng chỉ ngoại ngữ quốc gia, quốc tế tăng cao; kết quả này được sử dụng trong xét điểm đầu vào đại học, học tập, nghiên cứu, giao lưu, tham gia thị trường lao động trong và ngoài nước.
Từ năm 2017, Bộ GD&ĐT xét công nhận tương đương điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông môn Ngoại ngữ sử dụng điểm thi đánh giá năng lực ngoại ngữ như IELTS, TOEFL, TOEIC… Trên cả nước, số lượng học sinh được miễn thi bài thi Ngoại ngữ tăng hàng năm: 28.620 thí sinh năm 2021; 35.391 thí sinh năm 2022; 46.667 thí sinh năm 2023; 67.000 thí sinh năm 2024.
Về mức độ phổ cập ngoại ngữ cho học sinh phổ thông, trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018, môn Ngoại ngữ là môn học bắt buộc từ lớp 3 đến lớp 12; ngoài ra còn có môn Ngoại ngữ tự chọn (Ngoại ngữ 1 lớp 1-2, Ngoại ngữ 2 lớp 6-12). Đối với sinh viên yêu cầu về năng lực ngoại ngữ là bắt buộc theo chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo. Nhìn chung chất lượng dạy học ngoại ngữ của hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay đã đạt được cả chiều rộng và chiều sâu.

Cần tiếp tục duy trì, nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học ngoại ngữ
Về tồn tại, hạn chế, bà Nguyễn Thị Mai Hữu cho rằng, chất lượng dạy học môn học ngoại ngữ tuy được cải thiện nhưng năng lực sử dụng ngoại ngữ nhất là tiếng Anh trong học tập, nghiên cứu, giao tiếp, làm việc trong môi trường quốc tế còn hạn chế. Nhiều địa phương chất lượng thi tốt nghiệp trung học phổ thông chưa cao, năng lực ngoại ngữ có chênh lệch vùng miền khá rõ, còn nhiều sinh viên không đạt yêu cầu đầu ra về năng lực ngoại ngữ nên bị treo bằng tốt nghiệp.
Đổi mới thi và kiểm tra, đánh giá đã được triển khai tại các cơ sở giáo dục, tuy nhiên bài thi tốt nghiệp vẫn chưa đánh giá đầy đủ 4 kỹ năng, trong đó kỹ năng nghe, nói còn tỉ trọng thấp. Việc đánh giá kết quả học tập chưa chuyển biến mạnh mẽ sang đánh giá phát triển năng lực của người học theo yêu cầu cần đạt, chuẩn đầu ra các chương trình giáo dục, chương trình đào tạo.
Chưa phối hợp chặt chẽ giữa địa phương và cơ sở giáo dục đào tạo giáo viên để đào tạo bổ sung nguồn giáo viên tiếng Anh thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, dẫn đến một số địa phương thiếu trầm trọng. Nguồn tuyển tại khu vực đặc biệt khó khăn rất ít, nhất là giáo viên tiếng Anh mầm non, tiểu học. Mặt khác, Nhà nước chậm ban hành cơ chế chính sách đặc thù để thu hút đội ngũ giáo viên tiếng Anh ở khu vực này.
Cần có sự chủ động, linh hoạt của địa phương, cơ sở giáo dục trong việc tăng cường nguồn lực, bố trí kinh phí đầu tư thực hiện Đề án. Đối với khu vực khó khăn ưu tiên cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên tiếng Anh tạo nguồn tại chỗ và ổn định lâu dài.
Nhận thức của nhiều cán bộ địa phương, đơn vị chưa đồng đều, chưa coi Đề án như “cú huých” để đưa việc học ngoại ngữ vào nề nếp chất lượng. Một số địa phương, đơn vị triển khai thực hiện Đề án thiếu đồng bộ, chưa quyết liệt, còn dàn trải, chưa có giải pháp đột phá. Việc xã hội hóa để huy động nguồn lực cho khu vực miền núi và dân tộc thiểu số còn rất hạn chế, do vậy cần có chính sách hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước cho khu vực này. Cần có sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Đề án theo hướng kế thừa, liên thông, liên kết giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo.
Bà Nguyễn Thị Mai Hữu đề xuất, thời gian tới, cần duy trì, phát huy các kết quả đạt được, tiếp tục triển khai ngày càng hiệu quả việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân. Các đề án, chương trình quốc gia, địa phương, nhà trường triển khai đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học được xây dựng, phê duyệt, triển khai.
Cùng với đó, tăng cường dạy học các ngoại ngữ khác, đặc biệt là tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Lào, tiếng Campuchia. Kế thừa, phát huy thiết kế Đề án hiện tại cho các đề án, dự án, chương trình liên quan trong giai đoạn tiếp theo. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý, đánh giá kiểm tra, giám sát trong triển khai các hoạt động đề án, chương trình, dự án…
Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/chuyen-bien-an-tuong-ve-chat-luong-day-va-hoc-ngoai-ngu-post748119.html
Bình luận (0)