30 năm “giữ gen, định danh điện tử” đưa quả tiến vua vươn ra thế giới.


Giữa thủ phủ nhãn lồng – xã Tân Hưng, Hưng Yên – có một vườn nhãn xanh mướt rộng 1,5ha được trồng theo cách rất khác.
Không phân hóa học, không thuốc bảo vệ thực vật, từng chùm nhãn căng mọng nơi đây được kết tinh từ niềm tin “muốn có quả ngon, trước hết phải tử tế với đất”, của anh nông dân Bùi Xuân Sử (SN1975).
Chỉ vài năm trước, cả vườn nhãn xanh mướt mắt này tiêu điều, tán trụi lá vì anh nông dân “khùng” bắt cây “ăn” phân cá, “uống” dịch chuối và chống sâu bệnh bằng chế phẩm ớt tỏi.
“Ba năm đầu không ai tin mình làm được. Không thuốc sâu, không phân hóa học. Cây bị “sốc” còi cọc dần, quả ít, lá xấu, thương lái quay lưng. Nhưng tôi biết, muốn chuyển sang hữu cơ thực sự thì phải chấp nhận giai đoạn đất hồi sức, không thể nóng vội”, anh Sử chia sẻ.
Bắt đầu từ con số “0” về kiến thức, anh Sử tự mày mò học mô hình canh tác bền vững, tham khảo tài liệu về nông nghiệp hữu cơ, thử nghiệm cách ủ phân cá…

Kết quả sau 5 năm là một mô hình vườn nhãn hữu cơ đạt 800/800 chỉ tiêu chất lượng, trở thành nhà cung cấp cho hệ thống siêu thị, Vietnam Airlines... Giá nhãn hữu cơ cao 2-3 lần so với sản phẩm thông thường, quả nhãn được đặt mua trước khi chín.
Quan trọng hơn cả, mô hình của anh Sử đã được nhân rộng. Khi vườn nhà ổn định, anh bắt đầu vận động xã viên HTX Nhãn lồng Nễ Châu (có 36 hộ trồng nhãn với tổng diện tích 18ha) cùng chuyển đổi. Anh chia sẻ nhật ký chăm sóc, hướng dẫn pha chế phẩm, tổ chức tập huấn ngay tại vườn.
Giấc mơ của những người nông dân này không chỉ là một vụ mùa trĩu quả, mà là cả một vùng trồng sạch, nơi cây lành, đất khỏe, người trồng và người ăn đều được lợi.
Những ngày này, vùng đất Phố Hiến xưa lại thơm lừng hương nhãn. Với nơi đây, nhãn lồng không chỉ là một loại nông sản, mà còn là biểu tượng văn hóa, chứng nhân lịch sử và là minh họa sống động cho khả năng kết tinh sản vật từ đất phù sa và bàn tay người Việt.
Theo các tài liệu cổ, giống nhãn tiến vua Phố Hiến từng được ghi lại bởi danh sĩ Lê Quý Đôn trong sách “Vân đài loại ngữ” với câu mô tả nổi tiếng:
“Quả ngọt như nước thánh trời cho, bỏ vào miệng răng lưỡi đều ưa thích”.
Thời Lê – Nguyễn, mỗi mùa quả, người dân Hưng Yên lại tuyển lựa những chùm nhãn đẹp nhất, ngọt nhất để tiến cống triều đình. Nhãn khi ấy được coi là sản vật quý, chỉ trồng được ở một số vùng nhất định. Trong đó Nễ Châu, Tân Hưng, Hồng Nam (cũ)… là những khu vực được mệnh danh là “long mạch” của giống nhãn quý.

400 năm qua, cây nhãn tổ vẫn sừng sững tỏa bóng rợp một góc Chùa Hiến như một chứng nhân lịch sử cho thứ “vương giả chi quả” – Niềm tự hào của người dân Hưng Yên.
Thế nhưng, trong dòng chảy phát triển của nông nghiệp hiện đại, giống nhãn cổ từng là niềm kiêu hãnh một thời đang đứng trước nguy cơ bị lãng quên.
Nhiều hộ nông dân lựa chọn thay thế bằng những giống mới có năng suất cao hơn, dễ chăm sóc, phù hợp với xu hướng thị trường nhanh – rẻ – nhiều.
Lão nông 70 tuổi Bùi Xuân Tám quyết định là người đi ngược dòng.
Suốt hơn 40 năm gắn bó với nghề trồng nhãn, ông Tám dành trọn tâm huyết để bảo tồn giống nhãn cùi cổ, loại nhãn lồng tiến vua có cùi dày, vị ngọt thanh, hương thơm đặc trưng, nhưng rất khó trồng, cho năng suất thấp, dễ bị sâu bệnh và phụ thuộc nhiều vào thời tiết.
“Giống này kén đất, kén người trồng, nhưng nếu trồng được thì quả ăn đến đâu nhớ đến đó”, ông nói.

Với ông, cây nhãn không chỉ là nguồn thu nhập, mà còn là ký ức, là di sản và là niềm tự hào của người dân Phố Hiến. Vì thế, ông không chạy theo năng suất, mà tập trung vào chất lượng. Những chùm nhãn cùi cổ do ông trồng tuy sản lượng ít nhưng được thương lái thu mua với giá lên đến hơn 100.000 đồng/kg, có thời điểm gấp 10 lần giống nhãn phổ thông.
Không bảo thủ, ông Tám sẵn sàng học hỏi, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Ông chủ động dùng chế phẩm sinh học, cải tạo đất bằng phân hữu cơ.
Ông còn liên kết với cán bộ khuyến nông, viện nghiên cứu để kiểm định chất lượng, cải thiện quy trình canh tác và bảo tồn gen giống nhãn quý.
Trong bối cảnh hội nhập, để giữ vững vị thế nông sản quê hương và đưa loại quả tiến vua vươn ra thế giới, chính quyền và người trồng nhãn Hưng Yên vẫn đang nỗ lực chuyển mình.
Loạt biện pháp đồng bộ về chuẩn hóa kỹ thuật từ gốc đến ngọn, định hướng phát triển bền vững, đầu tư vào chế biến sâu và phát triển chuỗi giá trị sau thu hoạch đã và đang mang đến trái ngọt.

Theo thống kê từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Hưng Yên, toàn tỉnh hiện có khoảng 5.000ha trồng nhãn, trong đó hơn 4.800ha đang cho thu hoạch, sản lượng hàng năm đạt 40.000-50.000 tấn, trồng chủ yếu dọc hai tuyến sông Hồng và sông Luộc.
Nhãn cũng là một trong những loại nông sản chủ lực của toàn tỉnh. Tỷ lệ các vùng trồng áp dụng kỹ thuật thâm canh chiếm khoảng 80–85%, góp phần đưa năng suất trung bình đạt 11–12 tấn/ha, cá biệt có vùng đạt tới 17–18 tấn/ha.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Văn Tráng - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Hưng Yên, trước thời kỳ Đổi mới, toàn tỉnh có rất ít diện tích nhãn được quy hoạch hoặc chăm sóc theo kỹ thuật bài bản. Cây nhãn tồn tại như một phần của vườn tạp, không được định danh về giống và hiệu quả kinh tế rất thấp.
Sau Đổi mới, nông nghiệp Việt Nam bước ra khỏi quỹ đạo tự cung tự cấp để tiến vào sân chơi của sản xuất hàng hóa. Không ngoại lệ, cây nhãn Hưng Yên cũng chuyển mình mạnh mẽ, bắt đầu từ cải tạo giống, đổi mới quy trình canh tác, cho đến hình thành chuỗi giá trị gắn với thị trường.
Năm 1998 đánh dấu bước ngoặt lớn khi chính quyền tỉnh Hưng Yên quyết định cải tạo toàn diện vườn nhãn tạp. Đây là thời kỳ ngành nông nghiệp địa phương bắt tay vào quá trình chọn lọc, xác lập và phát triển giống nhãn bản địa có năng suất, chất lượng vượt trội.

Trong đó, hai giống PHM99-1.1 (Miền Thiết) và PHM99-1.2 (Hương Chi) được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (cũ) công nhận chính thức, mở ra giai đoạn mới cho sản xuất có định hướng.
“Sau hơn hai thập kỷ, Hưng Yên hiện đã tuyển chọn, bảo tồn hơn 45 nguồn gen nhãn quý, trong đó một số giống đặc sản như Đường Phèn, Cùi Cổ đã được đề xuất công nhận đặc cách. Đây là cơ sở để triển khai sản xuất đại trà, đồng thời bảo vệ di sản sinh học vùng miền trong điều kiện biến đổi khí hậu”, ông Tráng thông tin.
Phương pháp nhân giống cũng được cải tiến căn bản. Thay vì trồng bằng hạt như truyền thống, người dân được tập huấn chiết cành, ghép mắt, đảm bảo cây giống đồng nhất về đặc tính sinh trưởng và chất lượng quả.
Quá trình nâng cấp giống diễn ra song song với một cuộc cách mạng trong canh tác.
Nếu trước kia, người dân thường để cây phát triển tự nhiên, bón phân hóa học và diệt sâu bệnh bằng thuốc trừ sâu vô cơ, thì nay tư duy sản xuất đã chuyển hướng rõ rệt.
Việc áp dụng kỹ thuật thâm canh hiện đại, từ cắt tỉa tạo tán sau thu hoạch, bón phân hữu cơ vi sinh, đến khoanh vỏ điều tiết ra hoa bằng KCLO₃,... đã giúp kiểm soát chu kỳ sinh trưởng, tăng năng suất và ổn định chất lượng quả.

Song song với đó, các chế phẩm sinh học như nano bạc - đồng được sử dụng thay thế thuốc hóa học, giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao độ an toàn thực phẩm và tạo mẫu mã quả đẹp hơn.
Nhiều vùng trồng tại Khoái Châu, Tiên Lữ, TP. Hưng Yên (cũ) đã được cấp chứng nhận VietGAP, một số địa phương đang tiếp cận tiêu chuẩn GlobalGAP để hướng tới xuất khẩu.
“Đồng thời, việc xử lý ra hoa bằng cả phương pháp cơ giới và hóa học giúp khắc phục hiện tượng nhãn ra quả cách năm, vốn là vấn đề phổ biến trước đây. Nhờ đó, gần như năm nào nhãn cũng cho hoa, đậu quả ổn định”, ông Tráng nhấn mạnh.
“Kết quả là diện tích nhãn toàn tỉnh đã tăng mạnh, từ hơn 1.000ha trước đây lên khoảng 5.000ha hiện nay. Theo tính toán, mỗi sào (360 m²) nhãn cho năng suất 5-7 tạ, với giá bán tại vườn dao động 20.000-30.000 đồng/kg. Như vậy, mỗi sào mang lại giá trị khoảng 10-15 triệu đồng, tương đương 300-350 triệu đồng/ha, cao gấp 6-7 lần so với trồng lúa”, ông Tráng phân tích.
Những năm gần đây, việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất đã tạo bước ngoặt cho ngành trồng nhãn của Hưng Yên.
Một mặt, tỉnh khuyến khích nông dân chuyển đổi những diện tích ruộng trũng, canh tác một vụ lúa kém hiệu quả sang trồng nhãn. Mặt khác, các giải pháp kỹ thuật được triển khai đồng bộ, giúp cây nhãn không chỉ đạt năng suất cao mà còn có chất lượng vượt trội.

Đặc điểm sinh học khiến thời gian thu hoạch nhãn chỉ kéo dài hơn một tháng, từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 9, tạo ra áp lực rất lớn về tiêu thụ, bảo quản và phân phối.
Tình trạng “được mùa mất giá” từng là vòng luẩn quẩn kéo dài suốt nhiều năm với người trồng nhãn. Sản phẩm tươi chủ yếu được tiêu thụ trong nước, sức ép thị trường tập trung trong thời gian ngắn khiến giá cả biến động, hiệu quả kinh tế không ổn định.
Thực tế đó buộc địa phương phải chuyển hướng: không thể tiếp tục trông chờ vào thời vụ, cây nhãn muốn phát triển lâu dài phải bước vào chuỗi giá trị chế biến sâu và hậu thu hoạch hiện đại.
Từ năm 2019 đến nay, tỉnh Hưng Yên đã phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp để triển khai đồng bộ giải pháp: từ mở lớp đào tạo kỹ thuật bảo quản - sơ chế, đến đầu tư hệ thống kho lạnh, nhà sơ chế đạt chuẩn HACCP, lò sấy hiện đại…
Nhiều hợp tác xã, tổ hợp tác tại các vùng trồng trọng điểm như: Tiên Lữ, Khoái Châu (cũ) được hỗ trợ vốn, máy móc và kết nối doanh nghiệp chế biến.

Thay đổi lớn nhất là chuyển biến tư duy sản xuất: nhãn không còn là sản phẩm vụ ngắn bán tươi tại chợ quê, mà trở thành nguyên liệu đầu vào cho các chuỗi sản phẩm giá trị cao như long nhãn, trà nhãn, rượu nhãn, bánh long nhãn...
Nhờ công nghệ sấy lạnh, bảo quản kín khí, hiện các sản phẩm long nhãn có thể giữ hương vị và màu sắc trong vòng 12-24 tháng mà không cần chất bảo quản. Từ đó, thay vì chỉ tiêu thụ trong nước, long nhãn Hưng Yên đã chính thức được xuất khẩu sang các thị trường có yêu cầu khắt khe như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Lợi ích kinh tế cũng thể hiện rõ rệt. Nếu nhãn tươi bán tại vườn chỉ khoảng 20.000-30.000 đồng/kg, thì long nhãn chất lượng cao có thể đạt giá 400.000-500.000 đồng/kg, gấp 6 đến 8 lần.
Việc kéo dài vòng đời sản phẩm và đa dạng hóa hình thức tiêu thụ giúp người trồng nhãn giảm rủi ro mùa vụ, đồng thời nâng cao giá trị lao động trên cùng một diện tích canh tác.

Mỗi cây nhãn trong vườn nhà anh Bùi Xuân Sử đều gắn tem QR. Chỉ cần quét mã, trên điện thoại sẽ xuất hiện số định danh.
Từ một sản phẩm mang tính mùa vụ, nhãn lồng Hưng Yên đang từng bước khẳng định vai trò là nông sản chủ lực chứa hàm lượng công nghệ cao.
Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Hưng Yên, đi đôi với chất lượng là công tác truy xuất nguồn gốc và nhận diện thương hiệu.
Hưng Yên hiện đã xây dựng hệ thống mã số vùng trồng, tem QR và nền tảng truy xuất điện tử hy.check.net.vn, tích hợp vào hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc gia.
Người tiêu dùng chỉ cần sử dụng điện thoại thông minh để quét mã QR gắn trên bao bì, lập tức truy cập được toàn bộ thông tin về sản phẩm: từ quy trình canh tác, đơn vị đóng gói, đến mã số vùng trồng. Việc truy xuất minh bạch không chỉ củng cố niềm tin thị trường, mà còn là công cụ giám sát chất lượng hiệu quả và thiết thực.

Bên cạnh đó, nhiều đơn vị sản xuất đã áp dụng tiêu chuẩn quốc tế như VietGAP, GlobalGAP, HACCP, ISO, nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường xuất khẩu.
Tính đến nay, long nhãn chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu nhãn của tỉnh. Sản phẩm này hiện đã có mặt tại các thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, và đang thăm dò mở rộng sang các thị trường cao cấp như EU và Mỹ.
Khác với hàng tươi truyền thống, long nhãn được đóng gói theo chuẩn, truy xuất nguồn gốc đầy đủ và có thể bảo quản dài hạn. Đây chính là lợi thế giúp sản phẩm đi xa hơn, đến được những thị trường có rào cản kỹ thuật cao.

Dù đã đi được chặng đường dài, cây nhãn Hưng Yên vẫn đứng trước một bước ngoặt lớn: Câu chuyện về tái cấu trúc mô hình nông nghiệp trong thời đại công nghệ.
Theo ông Tráng, để cây nhãn thực sự trở thành ngành hàng chủ lực có khả năng cạnh tranh quốc tế, cần song hành ba yếu tố: cơ chế hỗ trợ mạnh mẽ, ứng dụng công nghệ 4.0 và một hệ sinh thái sản xuất - tiêu thụ được liên kết chặt chẽ.
“Trong tương lai gần, tôi hoàn toàn có kỳ vọng rằng các công nghệ hiện đại như AI, chuyển đổi số và blockchain sẽ dần được ứng dụng sâu rộng vào chuỗi sản xuất - chế biến - tiêu thụ nhãn lồng Hưng Yên, trở thành bệ phóng quan trọng để nâng tầm nông sản này ra thị trường quốc tế”, ông Tráng nhấn mạnh.
Ở cấp độ hộ nông dân, AI có thể phân tích dữ liệu theo từng mã số vùng trồng, đưa ra dự báo sâu bệnh, thời tiết bất lợi, và tối ưu hóa lịch tưới tiêu, bón phân theo chu kỳ sinh trưởng. Cảm biến thông minh và thiết bị bay không người lái (drone) giúp giám sát từ xa và phát hiện bệnh sớm, giảm thiểu rủi ro và tăng năng suất.

Ở cấp độ chuỗi cung ứng, các nền tảng quản lý số giúp kết nối thông suốt từ khâu trồng trọt - sơ chế - đóng gói - phân phối, đảm bảo tính minh bạch và tối ưu hóa chi phí. Trong khi đó, blockchain được kỳ vọng sẽ tạo ra bước tiến trong truy xuất nguồn gốc, kiểm soát chất lượng và ngăn chặn hàng giả.
80 năm sau ngày độc lập, một loại quả mang đậm hồn quê đang bước ra thế giới, không còn là “của để dành” trong ký ức, mà là sản phẩm của công nghệ, của thương hiệu và của khát vọng vươn mình.
Để mỗi mùa nhãn đến, người dân Hưng Yên lại tự hào câu hát:
Dù ai buôn Bắc bán Đông
Đố ai quên được nhãn lồng Hưng Yên.
Nguồn: https://dantri.com.vn/khoa-hoc/30-nam-giu-gen-dinh-danh-dien-tu-dua-qua-tien-vua-vuon-ra-the-gioi-20250727094757660.htm
Bình luận (0)